Cổng thông tin điện tử huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa
THỌ XUÂN PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH HUYỆN NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO VÀO TRƯỚC NĂM 2024, ĐẾN NĂM 2025 TRỞ THÀNH MỘT TRONG NHỮNG HUYỆN DẪN ĐẦU CÁC PHONG TRÀO CỦA TỈNH, ĐẾN NĂM 2030 TRỞ THÀNH THỊ XÃ THỌ XUÂN
date

Chiến lược - Định Hướng - Quy hoạch

NHỮNG DẤU ẤN, THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020

Đăng lúc: 09/03/2021 (GMT+7)
100%

Chương III

NHỮNG DẤU ẤN, THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG  NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020

 

I. ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THỌ XUÂN

1. Chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng, Chính phủ

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới là: ”Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW đã nêu một cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp, nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không phải chỉ là nhiệm vụ của nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh; Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.

Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 đã nêu một cách tổng quát về mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta một lần nữa khẳng định, xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: “Tiếp tục triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam”.

Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Ngày 04 tháng 6 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 800/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, trong đó xác định mục tiêu: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chương trình cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới và đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu chung của chương trình được xác định là: xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, diễn ra vào tháng 1 năm 2016, Đảng ta một lần nữa đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là: “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu”([1]). Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi để sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao”([2]).

Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, nhiệm vụ của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là: phát triển nông nghiệp bền vững; thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng và hiệu quả cao; xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của dân cư nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Tại hội nghị toàn quốc tổng kết 5 năm xây dựng nông thôn mới, Đảng ta cũng chỉ rõ nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2016 - 2020 là: “tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân”. Cũng tại hội nghị, một yêu cầu bức thiết đặt ra là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững. Xây dựng nông thôn mới bền vững là quá trình tiếp tục củng cố và phát triển hài hòa các tiêu chí đã đề ra, duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt được, bổ sung một số tiêu chí phản ánh mức độ hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của người dân nông thôn. Theo đó, muốn xây dựng nông thôn mới bền vững cần đáp ứng các nhóm tiêu chí sau:

Một là, giữ vững chất lượng hạ tầng kinh tế - xã hội, nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại;

Hai là, phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất có hiệu quả, sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa;

Ba là, phát triển hài hòa các mặt của xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển, trình độ dân trí cao; cải thiện môi trường, môi sinh;

Bốn là, nâng cao chất lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và đảm bảo an ninh trật tự xã hội.

Đảng ta xác định cần “tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến năm 2020 khoảng 40 - 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Rà soát, hoàn hiện cơ chế, chính sách và tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc thù từng vùng. Quy hoạch lại các điểm dân cư phân tán tại địa bàn miền núi, đồng bào dân tộc. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và huy động các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa bàn nông thôn. Đồng thời đẩy mạnh đào tạo nghề với các hình thức đa dạng, phù hợp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn. Tập trung giải quyết tình trạng du canh, du cư, di cư tự do”.

Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa nhiệm kỳ 2015 - 2020 cũng đã xác định 5 chương trình trọng tâm, trong đó có Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đại hội cũng đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, trong đó nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới xác định: “Đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới; huy động tối đa mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong Nhân dân, kết hợp lồng ghép các nguồn lực từ các chương trình, dự án của nhà nước, của tỉnh để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi và các thiết chế văn hóa”.

Tiếp thu, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, của Chính phủ và của Tỉnh ủy Thanh Hóa về thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện Thọ Xuân đã nhanh chóng triển khai, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, đề ra mục tiêu, chỉ tiêu và phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đó trong từng giai đoạn cụ thể.

2. Triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới tại Thọ Xuân

Khi bước vào triển khai thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới, huyện Thọ Xuân có nhiều thuận lợi:

Trước hết, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới là chương trình trọng tâm của quốc gia, vì vậy, huyện Thọ Xuân luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các sở, ban ngành của tỉnh Thanh Hóa. Để triển khai thực hiện chương trình, Trung ương và tỉnh có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất. Các sở, ban ngành luôn phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân huyện tập huấn các nội dung chương trình xây dựng nông thôn mới; lập và hoàn thiện hồ sơ nông thôn mới cấp xã, cấp huyện. Đây là yếu tố quan trọng giúp sự thành công của chương trình nông thôn mới huyện Thọ Xuân.

Về mặt địa lý, Thọ Xuân là huyện có diện tích lớn, dân số đông. Trên địa bàn huyện có Đô thị Lam Sơn - Sao Vàng, là một trong “tứ giác” phát triển kinh tế của tỉnh và nằm trên trục động lực phát triển kinh tế (thành phố Thanh Hoá - Sầm Sơn - Thọ Xuân) và Khu Kinh tế Nghi Sơn - Thạch Thành - Bỉm Sơn; là đầu mối giao thông, hạ tầng kỹ thuật cấp vùng, Cảng hàng không Thọ Xuân được quy hoạch là Cảng hàng không quốc tế... rất thuận lợi cho giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị với các vùng miền trong cả nước. Hệ thống thuỷ nông Bái Thượng và hệ thống kênh chính Bắc sông Chu - Nam sông Mã đảm bảo tưới tự chảy cơ bản cho toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của huyện.

Về văn hóa, Thọ Xuân là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, ghi đậm dấu ấn trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh “dựng nước và giữ nước” của dân tộc, là địa phương có truyền thống cách mạng, Nhân dân cần cù lao động, sáng tạo trong phát triển kinh tế; có dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, luôn đi đầu trong các phong trào; có nhiều mô hình, cách làm hay trong công cuộc đổi mới đất nước. Trên địa bàn huyện có nhiều di tích lịch sử văn hoá, nghệ thuật; đặc biệt là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Lam Kinh, Đền thờ Lê Hoàn, Trò Xuân Phả - Di sản phi vật thể quốc gia... rất thuận lợi cho phát triển du lịch tâm linh, sinh thái, du lịch trải nghiệm.

Nhìn chung, khi bước vào thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, kinh tế của huyện đang duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, lĩnh vực xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định, không để xảy ra vụ việc đột xuất, bất ngờ, không phát sinh điểm nóng. Bên cạnh đó, huyện đã hoàn thành dồn điền đổi thửa, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông thôn được chỉnh trang, nâng cấp, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm chỉ đạo sản xuất. Đó là những yếu tố “thiên thời, địa lợi”, là xuất phát điểm quan trọng để huyện tập trung sự lãnh đạo chỉ đạo và huy động các nguồn lực vào việc triển khai xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện Thọ Xuân cũng gặp không ít khó khăn, đó là:

Thọ Xuân là huyện trọng điểm về sản xuất nông nghiệp của tỉnh, song sản xuất nông nghiệp vẫn còn phân tán, manh mún ở quy mô hộ gia đình, công nghiệp chế biến chưa phát triển, thị trường tiêu thụ sản phẩm còn khó khăn, nguồn lực tài nguyên chưa được khai thác, phát huy hiệu quả. Ngành nghề nông thôn, dịch vụ chưa phát triển, lao động trình độ tay nghề thấp; kinh tế tập thể được quan tâm phát triển nhưng chưa phát huy được vai trò là động lực, hỗ trợ kinh tế hộ phát triển.

Khi triển khai thực hiện chương trình, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân về quan điểm, mục tiêu xây dựng nông thôn mới chưa đầy đủ, còn có tư tưởng ngại khó, trông chờ vào sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên, trong khi đó, nguồn lực huy động để đầu tư xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội rất lớn, trong lúc nguồn hỗ trợ từ ngân sách cấp trên có hạn, rất cần sự tham gia của người dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ”.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, song với sự quyết tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở; sự vào cuộc của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; sự đồng thuận, hưởng ứng tích cực của người dân, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện Thọ Xuân đã đạt được những thành quả to lớn, vượt mục tiêu đã đề ra.

Bước vào triển khai thực hiện chương trình, năm 2010, huyện thành lập Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gồm 38 đồng chí, do đồng chí Bí thư Huyện ủy làm trưởng ban; xây dựng và ban hành quy chế hoạt động; phân công nhiệm vụ cho các thành viên chỉ đạo các phòng, ngành, Ủy ban nhân dân các xã tiến hành rà soát từng tiêu chí xây dựng nông thôn mới tại các địa phương, hướng dẫn các xã thực hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch.

Ban chỉ đạo, Ban quản lý xây dựng nông thôn mới các xã, Ban phát triển thôn cũng được thành lập và củng cố, kiện toàn và đi vào hoạt động theo đúng quy định. Ngay sau Đại hội Đảng bộ các xã trên địa bàn huyện, do có thay đổi về đội ngũ cán bộ chủ chốt, huyện đã chỉ đạo các xã kiện toàn lại Ban chỉ đạo nông thôn mới cấp xã và Ban phát triển thôn, sau khi kiện toàn xong đã đi vào hoạt động theo quy định. Tổ chức các hội nghị quán triệt các văn bản chỉ đạo của trung ương, tỉnh, của huyện và tích cực tuyên tuyền các nội dung của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Ban chỉ đạo xã đã xây dựng kế hoạch, tiến độ cụ thể cho từng tiêu chí, phân công người thực hiện gắn với đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cán bộ, công chức, đặc biệt là người đứng đầu. Phát động phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới giữa các thôn, xóm. Huy động các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực của Nhân dân trên cơ sở thực hiện đúng Pháp lệnh 34 về Dân chủ ở xã, phường, thị trấn để xây dựng nông thôn mới. Chỉ đạo thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Tuyên truyền, vận động Nhân dân hiến đất, giải phóng mặt bằng, góp công sức, kinh phí cải tạo nâng cấp đường giao thông, nhà văn hóa xóm, xây dựng thôn xóm sáng, xanh, sạch đẹp, văn minh, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.

Bên cạnh việc thành lập Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới các cấp, Ban Thường vụ Huyện ủy đã phân công các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, các đồng chí Huyện ủy viên, các thành viên trong Ban chỉ đạo phụ trách và giúp các xã tiến hành xây dựng kế hoạch chi tiết, giải pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương để có lộ trình, bước đi phù hợp trong xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo được thực hiện đồng bộ và kịp thời, công cuộc xây dựng nông thôn mới của huyện đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.

Bước vào giai đoạn 2010 - 2015, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới, tránh sự trông chờ ỷ lại của các địa phương, hằng năm trên cơ sở kế hoạch nông thôn mới của các xã, Ban Thường vụ Huyện ủy đã thành lập các Tổ công tác để chỉ đạo, hướng dẫn các xã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới do các đồng chí Thường trực Huyện ủy làm Tổ trưởng, các đồng chí Thường vụ Huyện ủy phụ trách cụm là Tổ phó, các phòng, ban, ngành là thành viên. Các Tổ công tác định kỳ 01 tháng/lần tổ chức làm việc với các xã đăng ký về đích nông thôn mới hằng năm để hướng dẫn chỉ đạo, nắm bắt tiến độ, tham mưu cho Ban Chỉ đạo, Ủy ban nhân dân huyện xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Huyện cũng đã thành lập 04 Tổ công tác chỉ đạo, hoàn thành các tiêu chí huyện nông thôn mới do đồng chí Chủ tịch và 03 đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Tổ trưởng, các phòng ngành, Đoàn thể làm thành viên phụ trách các tiêu chí thuộc lĩnh vực phụ trách. Thành lập Tổ công tác hoàn thiện hồ sơ đề nghị xét công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới do đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân huyện làm Tổ trưởng.

Thực hiện Quyết định số 1996/QĐ-TTg ngày 4/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/8/2015 UBND huyện ban hành Quyết định số 1871/QĐ-UBND về việc thành lập Văn phòng nông thôn mới cấp huyện để giúp Ban chỉ đạo huyện xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, theo dõi, tổng hợp, báo cáo tình hình về thực hiện Chương trình trên địa bàn huyện.

Khi triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, Ban chỉ đạo huyện đã chọn xã Xuân Giang là xã có xuất phát điểm kém so với các xã trên địa bàn huyện về hạ tầng và phát triển sản xuất để làm điểm xây dựng nông thôn mới, để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt; phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phát huy cao vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của Nhân dân.

Thực hiện Quyết định số 1666/QĐ-UBND, ngày 27/5/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa về việc “Ban hành hướng dẫn quy trình đánh giá xã đạt các tiêu chí nông thôn mới”. Hội đồng thẩm tra xã đạt các tiêu chí nông thôn mới của huyện đã tổ chức thẩm tra số tiêu chí đạt được của các xã và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ra Quyết định công nhận số tiêu chí đạt được của các xã đến ngày 25/5/2012. Kết quả tiến hành khảo sát ở 37 xã của huyện Thọ Xuân, tổng số tiêu chí đạt được là 210 tiêu chí, bình quân mỗi xã là 5,7 tiêu chí. Cụ thể như sau:

Có 01 xã đạt 10 tiêu chí (Hạnh Phúc); có 05 xã đạt 8 tiêu chí (Thọ Xương, Xuân Lam, Xuân Trường, Tây Hồ, Xuân Tín); có 06 xã đạt 7 tiêu chí (Xuân Quang, Nam Giang, Xuân Thành, Xuân Vinh, Thọ Nguyên, Xuân Tân); có 07 xã đạt 6 tiêu chí (Xuân Thiên, Xuân Minh, Xuân Giang, Thọ Trường, Bắc Lương, Thọ Lộc, Xuân Châu); có 08 xã đạt 5 tiêu chí (Xuân Bái, Thọ Lâm, Xuân Lập, Xuân Phú, Thọ Hải, Xuân Hòa, Phú Yên, Quảng Phú); có 06 xã đạt 4 tiêu chí (Xuân Sơn, Xuân Yên, Thọ Diên, Thọ Thắng, Xuân Khánh, Xuân Phong); có 04 xã đạt 3 tiêu chí (Xuân Thắng, Thọ Minh, Xuân Hưng, Thọ Lập).

Qua việc rà soát ban đầu, nhiều xã số tiêu chí đạt thấp; nhiều tiêu chí cần nguồn vốn lớn để đầu tư xây dựng như cơ sở vật chất hạ tầng, đường giao thông, kênh mương nội đồng... Đây là một trong những khó khăn lớn khi tổ chức thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới và cần huy động tổng thể các nguồn lực, nhất là sự đóng góp của Nhân dân.

Xác định tuyên truyền là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chương trình, ngay sau khi triển khai thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo, triển khai đồng bộ và rộng khắp từ huyện đến cơ sở.

Cấp ủy huyện và cơ sở đã quán triệt Nghị quyết của Đảng và các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đưa nội dung xây dựng nông thôn mới trở thành nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên được bàn thảo trong sinh hoạt thường kỳ. Ban Tuyên giáo Huyện ủy phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị xây dựng chuyên đề, thường xuyên tuyên truyền qua đội ngũ báo cáo viên cấp huyện ở các kỳ hội nghị báo cáo viên hằng tháng.

Phòng Văn hóa và Thông tin, Trung tâm Văn hóa Thông tin huyện xây dựng kế hoạch, tiến hành các hoạt động tuyên truyền qua hệ thống các cụm pano, áp phích, băng zôn tại các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm đông dân cư trên địa bàn huyện. Chỉ đạo Đài Truyền thanh huyện và cơ sở mở thêm chuyên mục, xây dựng các bản tin, thường xuyên cập nhật và thông tin về các chủ trương, chính sách liên quan đến chương trình xây dựng nông thôn mới; cập nhật tình hình, tiến độ trên địa bàn và phản ánh những điển hình trong quá trình thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Các tổ chức chính trị, xã hội cấp huyện đã tổ chức nhiều hoạt động để tuyên truyền về chương trình xây dựng nông thôn mới như: tổ chức các cuộc vận động, các cuộc thi tìm hiểu về kiến thức xây dựng nông thôn mới, thực hiện ký giao ước thi đua với các cấp hội, đoàn, đội cơ sở trong phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới. Ở cơ sở, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân... đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú, đa dạng nhằm tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của xây dựng nông thôn mới; vai trò chủ thể của người nông dân trong tổ chức thực hiện. Phát động phong trào “Hiến đất và tài sản trên đất trong giải phóng mặt bằng” phục vụ thi công các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, đồng thời phát động đoàn viên, hội viên đẩy mạnh tuyên truyền qua những tấm gương, điển hình, qua các hình thức tuyên truyền “miệng”, tạo hiệu ứng lan truyền trong cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích của xây dựng nông thôn mới đối với bản thân và cộng đồng, từ đó, thay đổi thái độ, tích cực tham gia.

Ngày 20/2/2012, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày Bác Hồ lần đầu tiên về thăm Thanh Hóa (20/2/1947 - 20/2/2012), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức lễ phát động phong trào thi đua “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới” và tổ chức ký kết thi đua giữa các xã trong cụm và giữa các cụm với nhau trong xây dựng nông thôn mới. Sau Lễ phát động, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cấp huyện, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã nhanh chóng hưởng ứng, tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trên địa bàn huyện, thúc đẩy phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh mẽ.

Hằng năm, Ban Thường vụ Huyện ủy đều tổ chức Hội nghị sơ kết, tổng kết phong trào thi đua “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới”; khen thưởng, biểu dương các tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc, những điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới, từ đó tạo sự động viên, khích lệ và lan tỏa trong cộng đồng.

Từ tháng 1/2012, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã quyết định biên soạn cuốn “Thông tin nội bộ”, phát hành hằng tháng đến mỗi chi bộ làm tài liệu tuyên truyền cho đội ngũ báo cáo viên cấp huyện và dùng cho sinh hoạt chi bộ, trong đó, xây dựng chuyên mục “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới”. Chuyên mục này thường xuyên đăng tải đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới; những bài viết phản ánh, cập nhật tình hình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện; các bài viết về những mô hình mới, những cách làm hay, những điển hình tiên tiến, cũng như phản ánh những bất cập, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện ở các xã.

Để nắm tình hình cụ thể, sâu sát, Ban Thường vụ Huyện ủy đã phân công các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ phụ trách cụm, Huyện ủy viên phụ trách cơ sở trực tiếp về dự sinh hoạt chuyên đề về xây dựng nông thôn mới ở các chi bộ thôn, xóm. Thường trực Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các ban, phòng, ngành, các tổ chức chính trị xã hội huyện đã trực tiếp đối thoại chuyên đề về xây dựng nông thôn mới với các đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã, Bí thư các chi bộ. Qua đó nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Tại mỗi thời điểm, công tác tuyên truyền xây dựng nông thôn mới lại đặt ra những yêu cầu mới xuất phát từ thực tiễn. Từ tuyên truyền để người dân hiểu xây dựng nông thôn mới là như thế nào, đến việc tuyên truyền huy động nguồn lực từ trong dân. Và khi những tiêu chí cứng đã hoàn thành thì những tiêu chí như tỉ lệ hộ nghèo, hình thức tổ chức sản xuất, thu nhập đòi hỏi sự nỗ lực từ chính người dân. Bởi vậy, đi đôi với việc tuyên truyền kết quả của chương trình, nhiều gương điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả gắn với nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng đã được thông tin sâu rộng. Thực tế cho thấy, những địa phương nào làm tốt công tác tuyên truyền thì chương trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương đó đều đạt kết quả tốt. Có thể thấy, thông qua công tác tuyên truyền, đã làm chuyển biến rõ nét về tư duy và nhận thức về xây dựng nông thôn mới của cán bộ đảng viên và Nhân dân, từng bước khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại; phát huy được tính tích cực của cán bộ và Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới.

Bước sang giai đoạn 2016 - 2020, công tác tuyên truyền vận động tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh, từng bước đi vào chiều sâu. Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện đã chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể Nhân dân từ huyện đến cơ sở bám sát mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình và chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò của chủ thể trong việc tham gia thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phong trào “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới” được quan tâm tập trung chỉ đạo, với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ” được tiếp tục triển khai thực hiện sâu rộng với nhiều hình thức tuyên truyền, vận động đa dạng, phong phú như: Tuyên truyền qua các chuyên mục trên hệ thống Đài truyền thanh huyện và xã; qua các lớp học tập, quán triệt Nghị quyết, chuyên đề, tập huấn; qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao của từng xã, cơ quan, đơn vị.

Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo chương trình xây dựng nông thôn mới huyện phối hợp với Báo Thanh Hóa, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, và các phương tiện thông tin như: viết bài đăng tin, phóng sự giới thiệu, tuyên truyền về mô hình phát triển sản xuất, chủ trương, cách làm mới trong thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo đổi tên chuyên mục “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới” thành chuyên mục “Thọ Xuân phấn đấu trở thành huyện nông thôn mới vào trước năm 2020” trên cuốn “Thông tin nội bộ” của Đảng bộ huyện, tiếp tục đăng tin, bài hằng tháng về xây dựng nông thôn mới, làm tài liệu tuyên truyền cho đội ngũ báo cáo viên và tài liệu sinh hoạt cho các chi bộ. Đài truyền thanh huyện hàng tuần xây dựng chuyên mục về xây dựng nông thôn mới với thời lượng 10 - 12 phút về các văn bản hướng dẫn, chủ trương, chính sách, cách làm hay và sáng tạo tập thể, cá nhân điển hình trong thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Có thể khẳng định, công tác tuyên truyền với nội dung và hình thức phù hợp là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của việc triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới tại Thọ Xuân.

Để thực hiện thành công chương trình, huyện đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế hỗ trợcác văn bản hướng dẫn thực hiện.

Ngày 01/11/2011, Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân đã ban hành Kế hoạch số 845/KH-UBND về việc “Lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện và thực hiện xây dựng nông thôn mới tại các xã điểm”. Tiếp đó, thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 29/02/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2012 - 2015, để có cơ sở xác định mục tiêu, lộ trình kế hoạch thực hiện, từ giữa năm 2012, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành kế hoạch số 751/KH-UBND ngày 02/7/2012 về việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới huyện Thọ Xuân giai đoạn 2012-2015; ngày 28/3/2013 Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến 2025.

Nghị quyết số 05-NQ/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy xác định mục tiêu chung: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch, môi trường sinh thái được bảo vệ; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo, hệ thống chính trị được củng cố, đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân ngày được nâng cao”.

Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết xác định:

- Từ 2013 đến 2015: hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở 9 xã điểm của tỉnh và huyện gồm: Xuân Giang, Hạnh Phúc, Xuân Quang, Xuân Trường, Tây Hồ, Thọ Nguyên, Xuân Thành, Xuân Lam và Thọ Xương. Năm 2013: có 01 - 02 xã đạt tiêu chí nông thôn mới (Xuân Giang, Hạnh Phúc). Năm 2014: có 01 - 02 xã đạt tiêu chí nông thôn mới. Năm 2015: các xã còn lại đạt tiêu chí nông thôn mới.

- Từ 2016 đến năm 2020: hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở 18 xã trong huyện (đạt 73% số xã xây dựng nông thôn mới).

- Từ 2021 - 2025: hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở tất cả 37 xã của huyện...

Năm 2015, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, trên cơ sở đánh giá những kết quả đã đạt được từ khi triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu cho nhiệm kỳ 2015 - 2020, phấn đấu xây dựng Thọ Xuân trở thành huyện nông thôn mới vào năm 2020. Đại hội đã đề ra 04 chương trình trọng tâm, trong đó có Chương trình phát triển nông nghiệp toàn diện, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất gắn với xây dựng nông thôn mới. Nội dung chương trình xác định:

“Quy hoạch, tổ chức sắp xếp lại sản xuất nông nghiệp, khuyến khích và mở rộng các hình thức liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Xác định ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển nông nghiệp công nghệ cao là tạo điều kiện tổ chức lại sản xuất, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp là khâu đột phá.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong xã hội, sự thống nhất và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong xây dựng nông thôn mới. Chú trọng phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân. Huy động các nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu theo quy hoạch, trọng tâm là đầu tư, nâng cấp những công trình có nhu cầu bức thiết phục vụ sản xuất và đời sống của Nhân dân; phấn đấu trở thành huyện nông thôn mới vào năm 2020”.

Sau đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân nhiệm kỳ 2015 - 2020, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2016 - 2020, huyện Thọ Xuân đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện.

Ngày 29 tháng 9 năm 2016, Ủy ban nhân dân huyện xây dựng và ban hành Đề án số 103/ĐA-UBND về Xây dựng huyện Thọ Xuân đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2019.

Trong mục tiêu chung, Đề án xác định:

“Xây dựng huyện Thọ Xuân trở thành huyện nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và từng bước hiện đại, thúc đẩy vùng nông thôn phát triển bền vững theo đúng quy hoạch được phê duyệt; gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo tồn văn hóa các dân tộc; đời sống vật chất và tinh thần, dân trí của người dân ngày càng được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn trong sạch vững mạnh; quốc phòng an ninh và trật tự trị an xã hội được giữ vững.

Phấn đấu đến hết năm 2019 có 33/37 (89,2%) xã hoàn thành xây dựng nông thôn mới, trong đó, năm 2016 phấn đấu 8 xã gồm: Tây Hồ, Xuân Vinh, Bắc Lương, Xuân Bái, Xuân Châu, Thọ Nguyên, Nam Giang và Xuân Tín đạt tiêu chí xã nông thôn mới. Năm 2017, phấn đấu 5 xã gồm: Xã Thọ Lộc, Xuân Khánh, Xuân Lập, Thọ Trường, Thọ Hải đạt tiêu chí xã nông thôn mới. Năm 2018, phấn đấu 5 xã gồm: Xã Thọ Lập, Xuân Tân, Xuân Yên, Xuân Phong, Xuân Hưng đạt tiêu chí xã nông thôn mới. Năm 2019, phấn đấu 6 xã gồm: Xã Xuân Sơn, Thọ Diên, Xuân Thiên, Thọ Lâm, Phú Yên, Quảng Phú đạt tiêu chí xã nông thôn mới”.

Nhằm cụ thể hóa Đề án số 103/ĐA-UBND ngày 29/9/2016, Ủy ban nhân dân huyện cũng đã xây dựng Kế hoạch số 78/KH-UBND ngày 18/7/2017 để triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện Thọ Xuân đến năm 2019, đảm bảo để Đề án được triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả; ban hành Chương trình số 27-CTr/HU ngày 05/10/2016 về Phát triển nông nghiệp toàn diện, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020...

Ngoài ra, trong quá trình lãnh đạo, triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, theo yêu cầu của từng thời điểm, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Ban Chỉ đạo, Ban Điều hành xây dựng nông thôn mới huyện cũng đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo, điều hành nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện chương trình theo kế hoạch đã đặt ra.

Với đặc điểm là huyện nông nghiệp, việc xác định phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới là chủ trương đúng đắn, cùng với chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung tiêu chí nông thôn mới, triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách của tỉnh, đồng thời, ban hành một số cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn tạo hành lang pháp lý, thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, gồm: Chính sách thưởng cho các xã hoàn thành xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2013 - 2015. Cụ thể, những xã đạt chuẩn năm 2013 thưởng 1 tỷ đồng, năm 2014 là 700 triệu đồng và năm 2015 là 500 triệu đồng; Chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống Nhân dân trên địa bàn; các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nâng cao thu nhập đời sống Nhân dân, chính sách khuyến khích phát triển trang trại...

Từ năm 2016, hằng năm Hội đồng nhân dân huyện trên cơ sở các nghị quyết của Huyện ủy đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích phát triển sản xuất, hỗ trợ các chương trình mục tiêu kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới như: Hỗ trợ xây dựng lò đốt rác thải 250 - 500 triệu đồng/lò; hỗ trợ xây dựng, nâng cấp công sở làm việc, trung tâm văn hóa, thể thao, trạm y tế, trường học đạt chuẩn quốc gia từ 200 - 500 triệu đồng/công trình;ỗH hỗ trợ xây dựng giao thông nội đồng 100 triệu đồng/km; hỗ trợ thu gom rác thải ngoài đồng ruộng 50 triệu đồng/tấn rác; hỗ trợ có mục tiêu cho các xã đăng ký đạt chuẩn nông thôn mới được hưởng đủ 80% kinh phí thu từ đấu giá quyền sử dụng đất; hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho doanh nghiệp thực hiện dự án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao từ 300 triệu - 10 tỷ đồng/doanh nghiệp; hỗ trợ các xã về đích nông thôn mới giai đoạn 2017 - 2019 mua xi măng 350 triệu đồng/xã; Hỗ trợ các xã về đích nông thôn mới giai đoạn 2018 - 2020 350 tấn xi măng/xã; thưởng các xã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới 500 triệu đồng/xã; Hằng năm, Hội đồng nhân dân huyện hỗ trợ 3 tỷ đồng để hỗ trợ các mô hình phát triển sản xuất trên địa bàn như: Hỗ trợ xây dựng mô hình rau an toàn trong nhà lưới sản xuất nông nghiệp công nghệ cao với quy mô 1.000m2: 50.000 đồng/m2; hỗ trợ mua máy sấy lúa giống 200 triệu đồng/máy; hỗ trợ mô hình cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa 100 triệu đồng/mô hình...

  Các cơ chế hỗ trợ được ban hành đã góp phần không nhỏ trong việc khuyến khích, kích cầu cho các xã tích cực đẩy mạnh sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung; nâng cao đời sống Nhân dân, hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng được lộ trình cũng như đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, tạo điều kiện cho các xã hoàn thành 19 tiêu chí nông thôn mới.

Cùng với tuyên truyền, công tác đào tạo, tập huấn luôn được huyện quan tâm, chú trọng. Hằng năm trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung ương, tỉnh và tình hình thực hiện xây dựng nông thôn mới ở các xã, huyện đã lựa chọn các nội dung thiết thực, bám sát theo nội dung Chương trình và tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã, thôn về các nội dung xây dựng nông thôn mới. Từ năm 2011 đến 2019, Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới đã phối hợp với Văn phòng Điều phối nông thôn mới tỉnh, chủ trì và phối hợp với các ngành, đoàn thể cấp huyện, Ban chỉ đạo các xã tổ chức được trên 18 lớp bồi dưỡng, tập huấn cho hơn 2.700 lượt đối tượng là cán bộ các ngành, đoàn thể cấp huyện, thành viên Ban chỉ đạo cấp xã và cán bộ thôn. Phối hợp với Trường Chính trị tỉnh, tổ chức Hội thảo về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới” thu hút hơn 100 đối tượng là cán bộ cấp huyện, xã tham gia. Thông qua các lớp tập huấn, đội ngũ cán bộ làm công tác nông thôn mới các cấp đã nắm được các chủ trương, chính sách và các bước triển khai thực hiện chương trình theo quy định của Trung ương và tỉnh, góp phần thực hiện hiệu quả các nội dung của Chương trình.

Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện, xã đã chủ động bố trí cho cán bộ chủ chốt từ huyện đến cơ sở đi học tập kinh nghiệm về xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tuyên Quang, Thái Bình, Hà Tĩnh và các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn trong và ngoài huyện với tổng số hơn 25 cuộc. Qua các đợt tham quan đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm, tạo sự thống nhất về nhận thức, đã vận dụng nhiều cách làm hay, sáng tạo, cụ thể trong chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chương trình ở các xã điểm và trong phạm vi toàn huyện.

Để chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới thực sự đi vào cuộc sống, huyện Thọ Xuân cũng đã huy động toàn thể hệ thống chính trị vào cuộc. Mỗi tổ chức, đoàn thể đều có những cách làm hay, sáng tạo, vận động được hội viên, đoàn viên tích cực tham gia thực hiện chương trình. Sự tham gia tích cực của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng nông thôn mới là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần vào thành công của chương trình xây dựng nông thôn mới tại Thọ Xuân.

II. THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1. Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới

Thực hiện Quyết định số 1457/QĐ-UBND ngày 11/5/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa về việc ban hành hướng dẫn lập quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, công tác lập quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới được triển khai đồng bộ, đúng quy trình. Đến 30/4/2012, đã phê duyệt quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở 37/37 xã, trong đó 01 xã xây dựng 03 loại quy hoạch (Xuân Giang), 36 xã còn lại lập quy hoạch 3 trong 1. Trên cơ sở rà soát thực trạng nông nghiệp, nông dân và nông thôn trên địa bàn và quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được phê duyệt, Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới từ huyện đến xã đã tập trung chỉ đạo việc lập đề án xây dựng nông thôn mới, đến ngày 20/11/2012 toàn huyện hoàn thành công tác lập và phê duyệt đề án xã nông thôn mới. Sau khi được phê duyệt đề án, các địa phương đã công bố, cắm mốc quy hoạch chung và triển khai lập các quy hoạch chi tiết, cũng như tổ chức thực hiện các nội dung theo đề án được phê duyệt để hoàn thành mục tiêu đề ra.

Sau khi được phê duyệt quy hoạch, hằng năm, các xã đều tổ chức rà soát, bổ sung điều chỉnh cục bộ quy hoạch cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Ngày 30/9/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành Quyết định số 3785/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 phân khu số 01 - Khu dân cư đô thị, thuộc đô thị Lam Sơn - Sao Vàng, huyện Thọ Xuân. Theo đó, xã Xuân Thắng được quy hoạch vào Khu đô thị, trên địa bàn huyện còn 36/36 xã đã có quy hoạch xây dựng được Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt và đã ban hành quy chế quản lý quy hoạch; các xã đã công bố, công khai quy hoạch theo quy định tại trung tâm xã, các thôn để người dân được biết, thực hiện, đồng thời, các xã đã tổ chức cắm mốc giới quy hoạch theo yêu cầu của quy định.

Ngày 26/6/2019, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số 2539/QĐ-UBND, phê duyệt quy hoạch vùng huyện Thọ Xuân và được công khai rộng rãi theo quy định. Quy hoạch vùng đã xác định rõ tính chất, chức năng của huyện: Là vùng tăng trưởng xanh phát triển kết hợp công - nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ, du lịch cảnh quan sinh thái và văn hoá lịch sử, hình thành vùng trọng điểm công - nông nghiệp cao của tỉnh; phát triển kinh tế - xã hội mang tính chất động lực lan toả, giao thoa giữa vùng đồng bằng, trung du và khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hoá với nhiều đầu mối giao thông quan trọng. Việc tỉnh phê duyệt quy hoạch vùng huyện Thọ Xuân đã tạo điều kiện cho Thọ Xuân có cơ sở chỉ đạo thống nhất việc xây dựng phát triển hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội trên địa bàn.

2. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân

Xác định phát triển sản xuất nâng cao thu nhập là “cái gốc” trong quá trình xây dựng nông thôn mới, nên toàn huyện đã tập trung cao nhất cho phát triển sản xuất, vừa đẩy mạnh việc hình thành và phát triển các hợp tác xã dịch vụ vừa quan tâm phát triển kinh tế hộ; thực hiện “tái cơ cấu ngành nông nghiệp” theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, từ năm 2012, toàn huyện đã tập trung chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần nâng cao đời sống Nhân dân và đẩy nhanh chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.

Trong phát triển sản xuất, trước hết huyện Thọ Xuân quan tâm xây dựng các mô hình có tính khả thi, hiệu quả, từ đó khuyến khích nhân ra diện rộng.

Để hỗ trợ phát triển sản xuất và ngành nghề nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo việc làm thường xuyên cho lao động nông thôn, Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân đã tổ chức triển khai, thực hiện Quyết định số 2032/QĐ-UBND ngày 29/6/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Hướng dẫn số số 1487/HDLN-SNN&PTNT-TC của liên ngành Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Sở Tài chính về hướng dẫn thực hiện dự án hỗ trợ phát triển sản xuất và ngành nghề nông thôn thuộc chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2012 - 2015 đến các xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

Căn cứ vào điều kiện thực tế tại các địa phương và nhu cầu đăng ký của các xã, huyện đã lựa chọn mô hình cơ giới hóa đồng bộ trong thâm canh sản xuất lúa ở 12 xã: Thọ Nguyên, Xuân Thành, Hạnh Phúc, Tây Hồ, Xuân Trường, Xuân Quang, Xuân Lam, Xuân Hòa, Thọ Trường, Xuân Tín, Xuân Giang, Xuân Phong với tổng diện tích 300 ha; mô hình trồng nấm tại xã Xuân Giang, mô hình trồng hoa ly cao cấp tại xã Bắc Lương, mô hình trồng cây ngô ngọt xuất khẩu tại xã Xuân Sơn (tổng số 15 mô hình).

Từ năm 2012 đến 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã phân bổ 4,34 tỷ đồng từ nguồn vốn nông thôn mới cho các xã để thực hiện mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất và ngành nghề nông thôn. Cùng với kinh phí hỗ trợ của tỉnh, các địa phương đã huy động được thêm 14,04 tỷ đồng (gấp 3,2 lần) để triển khai thực hiện. Đến năm 2015, đã lựa chọn và tổ chức thực hiện 27 mô hình cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân tham gia, trong đó: 10 mô hình trồng hoa, 03 mô hình trồng cây ăn quả, 01 mô hình chăn nuôi, 12 mô hình cơ giới hóa đồng bộ, 01 mô hình ngành nghề nông thôn, mô hình ớt xuất khẩu, ngô ngọt xuất khẩu...

Việc áp dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh gây ra; đưa cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất, nhiều mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, như: mô hình trồng hoa tại xã Bắc Lương, Xuân Trường, Thọ Diên, thu nhập bình quân trên 300 triệu/ha; mô hình trồng ớt xuất khẩu tại các xã: Thọ Trường, Xuân Hòa, Xuân Quang, Xuân Vinh năng suất bình quân đạt 16 tấn/ha, thu nhập bình quân đạt 90 - 100 triệu đồng/ha; mô hình trồng ngô ngọt tại Xuân Sơn, thu nhập đạt trên 60 triệu đồng/ha; mô hình trồng chuối tiêu hồng tại xã Thọ Nguyên, Thọ Lâm, thu nhập bình quân đạt 200-250 triệu đồng/ha; mô hình trồng bưởi Diễn, cam Xã Đoài tại các xã: Xuân Thành, Xuân Trường, Bắc Lương, thu nhập bình quân từ 300-500 triệu đồng/ha, ngoài ra còn nhiều mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao...

Nhìn chung, các mô hình sản xuất được lựa chọn đã đáp ứng được yêu cầu thực tế, phù hợp với nguyện vọng của người dân và đúng với nội dung của Chương trình xây dựng nông thôn mới, lấy phát triển sản xuất là gốc để nâng cao giá trị sản xuất và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, nhờ đó, đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân góp phần xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh việc xây dựng các mô hình phát triển sản xuất, việc củng cố, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất cũng được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện.

Triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện Thọ Xuân đã tăng cường củng cố, phát triển quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất của nông dân và là cầu nối giữa khâu sản xuất với khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất. Từ năm 2012 đến năm 2015, nhiều hợp tác xã được củng cố, kiện toàn từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Các hợp tác xã vừa làm dịch vụ cung ứng vật tư, vừa thực hiện khâu làm đất, thu hoạch và bao tiêu sản phẩm, góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm, mang lại thu nhập cho nông dân và lợi nhuận cho hợp tác xã, điển hình như các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở các xã: Thọ Trường, Thọ Xương, Xuân Thành, Xuân Tín, Xuân Hòa...

Bước sang giai đoạn 2016 - 2020, việc phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân tiếp tục là nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng của Chương trình, đồng thời là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững. Do đó, huyện đã tập trung chỉ đạo, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2011 - 2019 đạt 15%, tăng 0,9% so với giai đoạn 2005-2010. Cơ cấu giá trị sản xuất chuyển dịch đúng hướng: Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành nông - lâm - thủy sản năm 2019 chiếm 16,7% giảm 13,8%; công nghiệp - xây dựng chiếm 50,2%, tăng 6,6% và dịch vụ thương mại chiếm 33,1%, tăng 7,2% so với năm 2011. Giá trị sản phẩm thu được bình quân1ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 109,6 triệu đồng, tăng 34,2 triệu đồng so với năm 2011. Thu nhập bình quân đầu người của huyện năm 2019 đạt 42,6 triệu đồng (gấp 2,7 lần so với năm 2011).

Về sản xuất nông nghiệp, xác định tái cơ cấu nông nghiệp là vấn đề cốt lõi để phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, huyện đã tập trung xây dựng và triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất; thực hiện tốt công tác đổi điền, dồn thửa; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các loại giống có năng suất chất lượng cao vào sản xuất. Khai thác lợi thế của các địa phương, quy hoạch và phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, đồng thời, hình thành và phát triển các chuỗi giá trị trong nông nghiệp.

Trong lĩnh vực trồng trọt, đã chuyển dịch theo hướng chuyển trọng tâm sản xuất từ sản lượng sang chất lượng, hiệu quả. Từng bước hình thành và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa, sản phẩm được chứng nhận an toàn, đặc biệt là có sự tham gia của các doanh nghiệp vào sản xuất và bao tiêu sản phẩm... Huyện đã hỗ trợ các hợp tác xã mua máy móc để đưa cơ giới hóa vào sản xuất. Đến cuối năm 2019, Thọ Xuân có 13 hợp tác xã cung ứng mạ khay, máy cấy hoạt động hiệu quả. Khâu làm đất bằng cơ giới hóa 100% diện tích; thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp trên 95% diện tích; khâu mạ khay, máy cấy bằng máy đáp ứng nhu cầu trên 2.500 ha; có 04 máy sấy lúa (công suất 30 tấn/ngày đêm) trên địa bàn huyện phục vụ sau thu hoạch… Đã xây dựng và duy trì được vùng lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao có hợp đồng bao tiêu sản phẩm với diện tích đạt 400 ha, mỗi năm cho thu nhập tăng thêm 3,6 triệu đồng/ha, vùng mía nguyên liệu 2.000 ha, mỗi năm cho thu nhập bình quân 17 triệu đồng/ha; chuyển đổi 589,2ha diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả, cây ngô, trồng sen nuôi cá tại 12 xã; chuyển đổi diện tích 143ha đất 01 vụ lúa hiệu quả thấp ở 4 xã sang trang trại tổng hợp, nuôi trồng thủy sản. Có 09 mô hình nhà màng, nhà lưới nông nghiệp công nghệ cao sản xuất rau, củ, hoa, quả hữu cơ kết hợp với tưới nước tiết kiệm với diện tích 65.000m2, lợi nhuận trên 800 triệu đồng/ha/năm; 216,9ha tập trung cây ăn quả có múi với giá trị thu nhập từ 400-500 và nhiều mô hình cây trồng có giá trị cao khác ở các xã khác mang lại thu nhập bình quân từ 300-400 triệu đồng/ha/năm; có 02 hợp tác xã sản xuất rau an toàn áp dụng tiêu chuẩn VIETGAP (Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Xuân Lai, hợp tác xã nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Phương Hồng xã Thọ Hải).

Lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản được tập trung chỉ đạo theo hướng chuyển mạnh từ chăn nuôi phân tán, nhỏ lẻ sang mô hình trang trại, gia trại và sản xuất hàng hóa đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo an toàn thực phẩm và tăng nhanh giá trị chăn nuôi, thủy sản. Huyện đã rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch và xây dựng các vùng chăn nuôi tập trung, đồng thời quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các vùng quy hoạch sản xuất gắn với bảo vệ môi trường. Đến cuối năm 2019, trên địa bàn huyện có 105 trang trại, gia trại với tổng diện tích 283,5 ha. Tổng vốn đầu tư của các trang trại, gia trại là 121,985 tỷ đồng; tổng giá trị sản phẩm hàng hóa đạt 184,11 tỷ đồng, tổng thu nhập đạt 62,125 triệu đồng, bình quân mỗi trang trại đạt 191,15 triệu đồng và đã giải quyết việc làm cho trên 1.200 lao động, với mức lương bình quân từ 3,5-4,0 triệu đồng/người/tháng. Kinh tế thủy sản tiếp tục được huyện tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả diện tích nuôi trồng; thực hiện chuyển đổi các diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, mở rộng diện tích nuôi thả nước ngọt lên 805 ha. Từng bước hình thành các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung theo hướng bán thâm canh tại xã Trường Xuân, Nam Giang, Xuân Lập, Xuân Hòa... đảm bảo an toàn sinh học.

Công tác phát triển hợp tác xã ngày càng được quan tâm đầu tư. Toàn huyện có 68 tổ chức kinh tế tập thể hoạt động hiệu quả, gồm: 45 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, 01 hợp tác xã dịch vụ thương mại, 08 hợp tác xã điện năng và 09 tổ chức tín dụng Nhân dân. Những năm qua, huyện luôn quan tâm, tập trung chỉ đạo củng cố, đổi mới, nâng cao và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp. 45/45 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp với 10.848 thành viên hoạt động theo quy định của Luật hợp tác xã năm 2012. Đến 30/6/2019, tổng doanh thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn đạt 33,75 tỷ đồng, tăng 300% so với năm 2011, lợi nhuận bình quân của các hợp tác xã đạt 130 triệu đồng/năm, thu nhập bình quân của người lao động làm việc thường xuyên trong hợp tác xã là hơn 2 triệu đồng/người/tháng. Có 36/45 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có hợp đồng liên kết, tiêu thụ sản phẩm chủ lực như: mía nguyên liệu, lúa thương phẩm, rau quả sạch... với các doanh nghiệp, cửa hàng an toàn thực phẩm, các công ty như Công ty Giống cây trồng Thái Bình, Công ty Giống cây trồng Trung ương, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật giống cây trồng Thanh Hóa...; từ đó, nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo việc làm, tăng thu nhập cho thành viên và người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế huyện. Qua đánh giá, trong 45 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có 06 hợp tác xã hoạt động tốt; 30 hợp tác xã hoạt động khá; 07 hợp tác xã hoạt động trung bình; 02 hợp tác xã mới thành lập năm 2018 (ở 2 xã Xuân Lập và Thọ Lâm).

Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng được xác định là ngành kinh tế quan trọng, chủ đạo của huyện, với tốc độ tăng trưởng cao (bình quân hằng năm tăng 17,9%), đóng góp lớn cho ngân sách, chiếm tỷ trọng giá trị 50,1% trong cơ cấu kinh tế của huyện năm 2019, tương ứng với tổng giá trị sản xuất là 9.587 tỷ đồng 8.197,7 tỷ đồng, tăng hơn 6% so với năm 2011. Trên địa bàn huyện có 4 cụm công nghiệp được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt với diện tích 80,2ha (02 cụm công nghiệp Thọ Nguyên, Xuân Lai đã có 02 doanh nghiệp may mặc được tỉnh chấp thuận vào đầu tư sản xuất, kinh doanh, giải quyết khoảng 1.200 công nhân, thu nhập bình quân 4-6 triệu đồng/người/tháng; 01 cụm công nghiệp Thọ Minh và 01 cụm tại thị trấn Thọ Xuân). Đến 30/6/2019, toàn huyện có 608 doanh nghiệp, chủ yếu quy mô vừa hoạt động ở lĩnh vực công nghiệp tạo công ăn việc làm cho trên 7.200 lao động, tập trung chủ yếu ở Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn; Công ty TNHH Lam Sơn - Sao Vàng; Công ty TNHH giày Phúc Thành; Công ty TNHH may Lương Thịnh; Công ty Cổ phần Quốc tế Swimax, Công ty DG Win; Công ty TNHH DV&TM Cẩm Hoàng; Công ty TNHH Tùng Phương... 04 công ty may xuất khẩu (Công ty may Tiên Sơn, Công ty giày Phúc Thành, Công ty may Hồ Gươm, Công ty may Tùng Phương) với tổng quy mô 15 ha, thu hút trên 2.200 lao động, với mức thu nhập bình quân 4,5-6,0 triệu đồng/người/tháng. Bên cạnh đó các hộ kinh doanh cá thể, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện hiện nay đang phát triển tốt: sản phẩm gạch không nung của Công ty Cổ phần thương mại dịch vụ Quang Phát, sản phẩm bánh gai Tứ Trụ, xã Thọ Diên; sản phẩm bánh Răng Bừa của xã Xuân Lập; làng nghề đồ mộc xã Thọ Minh, xã Xuân Bái... cũng đã thu hút được nhiều lao động với mức thu nhập bình quân 5-6 triệu đồng/người/tháng.

Năm 2019, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt 9.587 tỷ đồng (tăng 16% so với cùng kỳ). Một số sản phẩm truyền thống duy trì mức độ tăng trưởng khá như: kẹo lạc, bánh gai, đồ mộc, đồ gỗ công nghệ, các sản phẩm may mặc, giày da… hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng về sản phẩm vượt chỉ tiêu đề ra. Giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ đạt 5.995 tỷ đồng (tăng 18,1% cùng kỳ); tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 4.715 tỷ đồng (tăng 22,0% cùng kỳ); giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 9,1 triệu USD (tăng 51,7% so với kế hoạch). Bên cạnh đó, năm 2019 đã thành lập mới 183 doanh nghiệp (tăng 2,0% so với kế hoạch). Đồng thời có 07 dự án được chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương, địa điểm đầu tư với quy mô diện tích đất trên 5,6ha và tổng số vốn đăng ký 118,9 tỷ đồng.

Dịch vụ, thương mại là lĩnh vực trong những năm qua có nhiều chuyển biến đáng kể, các hoạt động xúc tiến thương mại được quan tâm chỉ đạo. Huyện thường xuyên tổ chức hội chợ giới thiệu sản phẩm và tham gia các hội chợ xúc tiến thương mại trong và ngoài tỉnh để quảng bá giới thiệu sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, du lịch của địa phương. Đặc biệt những năm gần đây, lĩnh vực này tiếp tục phát triển với tốc độ cao, đóng góp lớn cho ngân sách. Năm 2019, dịch vụ thương mại chiếm tỷ trọng 33,1% trong cơ cấu kinh tế của huyện (tăng 7,2% so với năm 2011). Đã hình thành nhiều cửa hàng thương mại với quy mô lớn. Các hoạt động dịch vụ ăn uống, vận tải, bưu chính viễn thông phát triển đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, giải trí của người dân và thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2019 đạt 4.715 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 9,1 triệu USD.

Từ những thành tựu trong phát triển kinh tế đã tác động tích cực đến kết quả nâng cao thu nhập, giảm nghèo cho người dân. Thu nhập bình quân đầu người của huyện liên tục tăng trong các năm gần đây và cao hơn so với thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn cả tỉnh, đồng thời khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị của huyện được thu hẹp hơn so với tỉnh. Bình quân đầu người khu vực nông thôn của huyện năm 2019 đạt 42,6 triệu đồng (gấp 3,1 lần so với năm 2011). Công tác giảm nghèo đạt kết quả tích cực, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm từ 18,53% năm 2011 xuống còn 2,42% (1.390 hộ/57.544 hộ), trong đó, tỷ lệ hộ nghèo của 36 xã ở mức 2,43%.

3. Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu

Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu là một lĩnh vực có tác động thúc đẩy mạnh phát triển trên các mặt kinh tế - xã hội. Sau khi tổ chức triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, trên địa bàn huyện đã triển khai thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn với phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, các xã đã kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn và đã đạt kết quả khá toàn diện.

Về giao thông: Hệ thống giao thông của huyện được tập trung chỉ đạo quyết liệt theo hướng đồng bộ, bảo đảm sự kết nối giữa trung tâm hành chính huyện với các xã và các vùng phụ cận, đáp ứng nhu cầu giao lưu, phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, kết hợp với huy động nguồn lực của địa phương, giai đoạn 2011 - 2019, toàn huyện đã sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới các tuyến đường huyện, xã, thôn, xóm và giao thông nội đồng, hoàn chỉnh mạng lưới xe buýt bao gồm điểm dừng đỗ, nhà chờ và bến xe. Quy mô, cấp đường đáp ứng yêu cầu tiêu chí xây dựng nông thôn mới, bảo đảm đi lại thuận. Công tác duy tu, bảo trì đường được thực hiện thường xuyên. Hệ thống biển báo giao thông trên các tuyến đường huyện tương đối đầy đủ theo quy định. Bao gồm: Đường huyện có 55/55 km được nhựa hóa, bê tông hóa, cấp đường đạt chuẩn cấp IV, V, VI theo quy hoạch. Đường xã, thôn, xóm, giao thông nội đồng 260,4/260,4 km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa/bê tông hóa, tăng 39,3% so với năm 2011; 96,72% (265,5/274,5 km) đường trục thôn, liên thôn được bê tông hóa, tăng 37,3% so với năm 2011; 88,69% (474/534,47 km) đường ngõ xóm được bê tông hóa, tăng 33,09% so với năm 2011; 84,94% (610,87/719,17 km) đường trục chính nội đồng được cứng hóa, tăng 30,04% so với năm 2011.

Về thủy lợi: Hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn huyện đã được đầu tư khá hoàn chỉnh và đồng bộ. Công trình thủy lợi liên xã chính là hệ thống kênh Bái Thượng, hệ thống đập - trạm bơm Cầu Nha, hệ thống kênh Bắc sông Chu - Nam sông Mã thuộc hồ chứa nước Cửa Đặt (Thường Xuân), hệ thống tiêu thủy Thọ Xuân - cống Hoàng Kim, hệ thống tiêu sông Hoàng, sông Cầu Chày... với tổng chiều dài 194,7km phục vụ tưới tiêu cho các xã, thị trấn và khu đô thị. Các công trình được các công ty nhà nước quản lý, khai thác theo đúng kế hoạch, phương án được duyệt. Hệ thống thủy lợi của các xã được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới, đáp ứng tốt nhu cầu tưới, tiêu phục vụ sản xuất, dân sinh, phòng chống thiên tai tại chỗ và tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Toàn huyện có 51 trạm bơm tưới, 04 trạm bơm tiêu; 740,89 km kênh tưới các cấp (có 516,62/740,89 km được kiên cố hóa, đạt 69,73%) và 47,7 km trục tiêu liên xã phục vụ tưới tiêu cho hơn 15.000ha đất sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ diện tích được tưới tiêu chủ động bằng phương pháp tự chảy và bơm động lực là 13.650/15.000 ha, đạt 91%.

Thọ Xuân có hệ thống sông dày đặc, gồm: sông Chu, sông Cầu Chày, sông Hoàng và sông Tiêu Thủy; có hơn 106 km đê bảo vệ trực tiếp cho 29.299,49ha diện tích tự nhiên, người dân và các công trình trên địa bàn huyện; công tác đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các công trình đê, kè, cống được tỉnh, huyện quan tâm thực hiện, bảo đảm an toàn trong phòng chống thiên tai. Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai đã được thành lập từ huyện đến các xã, thị trấn trên địa bàn, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện (ở xã là đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã) làm trưởng ban. Hằng năm, Ban chỉ đạo các cấp đều xây dựng kế hoạch phòng chống thiên tai, có phương án ứng phó với các loại thiên tai cụ thể theo phương châm “4 tại chỗ”, đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai của địa phương.

Về điện: 100% hệ thống lưới điện của các xã trên địa bàn huyện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện. Toàn huyện hiện có 245 trạm biến áp với tổng công suất 51.600 KVA; 301,833 km đường trung thế. Hệ thống điện được quản lý, vận hành bởi Công ty Điện lực Thọ Xuân, công ty Điện lực Thiệu Hóa, Công ty cổ phần kinh doanh điện Thanh Hóa và 08 hợp tác xã điện năng trên địa bàn. Hằng năm các đơn vị đều có kế hoạch đầu tư cải tạo, nâng cấp lưới điện tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện bằng các nguồn vốn và dự án khác nhau nhằm đảm bảo lưới điện vận hành an toàn, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của Nhân dân và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của các địa phương. Hiện, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện an toàn từ các nguồn đạt 100%.

Về trường học: Đây là nội dung luôn được tăng cường đầu tư xây dựng nâng cấp, mua sắm trang thiết bị dạy học đạt chuẩn quốc gia. Giai đoạn 2011 - 2019), huyện đã đầu tư 242,6 tỷ đồng để nâng cấp, xây mới 57 công trình trường học, mua sắm, bổ sung trang thiết bị, đồ dùng dạy học. Đến cuối năm 2019, huyện có cơ sở vật chất trường học các cấp khá đồng bộ và khang trang, toàn huyện có 111/127 trường chuẩn quốc gia (mầm non 39 trường; tiểu học 37 trường; trung học cơ sở 31 trường; tiểu học và trung học cơ sở 01; trung học phổ thông 03 trường), đạt 87,4%. Cụ thể: 36 xã đã hoàn thành xây dựng nông thôn mới có 96/105 trường đạt chuẩn, đạt tỷ lệ 91,4% (tăng 52 trường so với năm 2011); có 3/5 trường THPT đạt chuẩn quốc gia, đạt 60%. Các trường còn lại cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học đạt 80% so với yêu cầu.

Về đầu tư cơ sở vật chất văn hóa: Việc đầu tư cơ sở vật chất văn hóa được triển khai tích cực với nhiều phương pháp, cách làm sáng tạo. Thông qua công tác tuyên truyền, các xã đã vận động Nhân dân tích cực đóng góp tiền của, ngày công lao động, vật liệu xây dựng để xây mới, nâng cấp nhà văn hóa và khu thể thao các thôn; đồng thời, huy động các nguồn lực khác nhau để đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa xã. Tính đến năm 2019, toàn huyện đã xây mới 28 trụ sở xã, 22 trung tâm văn hóa, 10 sân vận động. Hệ thống cơ sở vật chất văn hóa của các xã trên địa bàn huyện đã đáp ứng yêu cầu. 36 xã có Trung tâm Văn hóa thể thao với diện tích, quy mô xây dựng đạt chuẩn theo quy định, phục vụ tốt việc tổ chức nhiều sự kiện chính trị quan trọng và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao cấp xã, tăng 100% so với năm 2011; 239/239 thôn có nhà văn hóa, khu thể thao thôn đạt chuẩn và đều được trang đầy đủ thiết bị, dụng cụ thể dục, thể thao phổ thông đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của Nhân dân trong thôn, tăng 82,2% so với năm 2011.

Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn cũng được quan tâm đầu tư. Từ năm 2011 đến năm 2019, các xã đã đầu tư, nâng cấp 26 chợ nằm trong quy hoạch hệ thống chợ nông thôn của tỉnh. Các chợ nông thôn trên địa bàn đều được xây dựng kiên cố đảm bảo đúng quy định và đạt tiêu chí chợ an toàn thực phẩm theo quy định, tăng 100% số chợ đạt chuẩn so với năm 2011. Đối với các xã không có quy hoạch chợ đều có cửa hàng kinh doanh tổng hợp, cửa hàng kinh doanh thực phẩm đảm bảo điều kiện an toàn theo quy định. Công tác đảm bảo an toàn giao thông, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm và thường xuyên vận động tuyên truyền, sắp xếp, bố trí các hộ buôn bán tự phát vào chợ để kinh doanh, không phát sinh các điểm kinh doanh tự phát.

Công tác thông tin truyền thông luôn được chú trọng đầu tư, đáp ứng yêu cầu trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ tốt công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến cộng đồng dân cư ở các xã trên toàn huyện. 100% số xã có điểm bưu chính viễn thông, 100% các thôn đều có các đường truyền internet có dây và không dây...; 100% số xã đều có hệ thống đài truyền thanh hoạt động; 100% số thôn có hệ thống loa truyền thanh kết nối với Đài truyền thanh xã hoạt động thường xuyên, ổn định; 100% số xã đều có trang thông tin điện tử thành phần trên cổng thông tin điện tử của huyện đang hoạt động. Việc ứng dụng phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc (TD-Office) đã được triển khai thực hiện tại Ủy ban nhân dân các xã, có ứng dụng phần mềm theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân huyện, có ứng dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo đúng quy định.

  Kinh tế nông thôn trên địa bàn huyện ngày càng phát triển, đã tạo điều kiện để người dân chỉnh trang, xây dựng nhà ở được khang trang, sạch, đẹp hơn; ngoài ra, từ nguồn ngân sách huyện và huy động từ quỹ đền ơn, đáp nghĩa, các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh đã góp phần thực hiện tốt chính sách nhà ở cho người nghèo, người có công với cách mạng. Đến năm 2019, huyện Thọ Xuân không còn hộ gia đình ở trong nhà tạm, nhà dột nát; tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng trên địa bàn toàn huyện là 51.525/57.544 hộ, đạt 89,54%, tăng 9,73% so với năm 2011. Đối với 36 xã xây dựng nông thôn mới là 44.512/49.576 hộ, đạt 89,79%, tăng 10,29% so với năm 2011.

4. Phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và bảo vệ môi trường

Lĩnh vực Giáo dục và đào tạo:. Huyện đã tập trung chỉ đạo, tạo điều kiện tốt nhất để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phát triển nguồn nhân lực ở địa phương. Cơ sở vật chất trang thiết bị đồ dùng dạy học từng bước được đầu tư nâng cấp đồng bộ ở tất cả các cấp học. Quy mô trường, lớp học ngày càng mở rộng. Đội ngũ giáo viên được đào tạo nâng cao về trình độ, 100% giáo viên ở các cấp học đều đạt chuẩn. Công tác quản lý, chỉ đạo, đổi mới từng bước đi vào nề nếp. Trung tâm học tập cộng đồng các xã, thị trấn hoạt động có hiệu quả. Theo đó, chất lượng dạy và học được nâng lên rõ rệt, huyện đạt và duy trì bền vững các chỉ tiêu sau: 100% xã đạt chuẩn Phổ cập giáo dục mầm non cho bé 05 tuổi từ năm 2014, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 năm 2016, phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2, xóa mù chữ mức độ 2 năm 2016; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được tiếp tục học trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông và học nghề hằng năm đạt từ 95% trở lên, năm 2018 đạt 99,7%; tỷ lệ lao động có việc làm qua đào tạo toàn huyện không ngừng tăng lên, năm 2019 đạt 71,5%, tăng 56,3% so với năm 2011. Đối với 36 xã xây dựng nông thôn mới, tỷ lệ đạt 70,5%, tăng 55,6% so với năm 2011.

Lĩnh vực y tế: Hệ thống cơ sở y tế từ huyện đến xã được đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết bị, đáp ứng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh cho Nhân dân và phòng chống dịch bệnh trên địa bàn huyện.

Bệnh viện Đa khoa huyện được xếp hạng II, quy mô 340 giường bệnh, thực tế 417 giường bệnh. Nguồn nhân lực có 216 người, trong đó có 01 BSCK II, 11 BSCK 1, 22 bác sỹ. Hằng năm, bệnh viện khám và điều trị cho 120.000 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú với trên 20.000 lượt bệnh nhân, không có sai sót lớn về chuyên môn. Kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2018, theo Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam, ban hành kèm theo Quyết định số 6858/QĐ-BYT ngày 18/11/2016 của Bộ Y tế, Bệnh viện đa khoa huyện Thọ Xuân thực hiện 83/83 tiêu chí với tổng số điểm là 272 điểm, trung bình 3,31 điểm/tiêu chí. Đánh giá 6 tháng đầu năm 2019 đạt 3,46/5 điểm.

Trung tâm y tế huyện Thọ Xuân được xếp hạng đơn vị Y tế hạng III. Cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư xây mới đảm bảo cho hoạt động chuyên môn của 7 khoa, phòng và khu điều trị Methadonen thay thế dạng thuốc phiện. Nguồn nhân lực của Trung tâm y tế gồm 41 người (trong đó có 3 bác sỹ CK I, 7 bác sỹ đa khoa) cùng với hệ thống máy móc trang thiết bị đảm bảo cho thực hiện các hoạt động y tế dự phòng, các chương trình mục tiêu y tế quốc gia và các bệnh xã hội. Nhiều năm liền không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm lớn trên địa bàn.

Toàn huyện có 41 Trạm y tế với 82 giường bệnh, 209 y, bác sỹ. 100% các trạm y tế duy trì chế độ trực, đảm bảo đủ cơ số thuốc cho việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Hoạt động tiêm chủng mở rộng tại các Trạm được quản lý bằng phần mềm. 100% số xã đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về Y tế. Đến hết năm 2019, tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 91,4%, ở 36 xã nông thôn mới tỷ lệ đạt 91,71%, tăng 39,98% so với năm 2011. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi toàn huyện là 21,1%, giảm 5,17% so với năm 2011.

Lĩnh vực văn hóa: có nhiều chuyển biến quan trọng. Trung tâm Văn hóa - Thể dục thể thao của huyện được đầu tư xây dựng, quy mô đạt chuẩn theo quy định. Trung tâm tổ chức nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, chất lượng được nâng lên cả về hoạt động phong trào và mũi nhọn, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của huyện và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần, rèn luyện sức khỏe của Nhân dân. Hoạt động văn hóa - thể dục thể thao luôn nằm trong tốp đầu của tỉnh.

Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở gắn với nội dung chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai đến từng xã, từng thôn, từng hộ gia đình bằng nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với phong tục, tập quán của từng địa phương, chất lượng không ngừng được nâng cao. 100% các thôn đã tiến hành điều chỉnh hương ước, quy ước, bổ sung các thiết chế văn hóa tại nhà văn hóa các thôn. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được đẩy mạnh và mang lại hiệu quả thiết thực. Đến cuối năm 2019, 36/36 xã xây dựng nông thôn mới đã được công nhận danh hiệu văn hóa theo quy định; 239/239 thôn được công nhận danh hiệu thôn văn hóa, đạt 100%; tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 87%. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác bảo tồn di sản và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được quan tâm đẩy mạnh. Trên địa bàn huyện hiện có 55 di tích (02 di tích Quốc gia đặc biệt; 04 di tích Quốc gia; 49 di tích cấp tỉnh) và 01 di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia Trò Xuân Phả. Gần 10 năm qua, tỉnh, huyện đã quan tâm đầu tư hỗ trợ 42,2 tỷ đồng để trùng tu, tôn tạo các di tích để giữ gìn, bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc.

Về môi trường: huyện Thọ Xuân đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để tăng cường chỉ đạo có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề, đề án bảo vệ môi trường, các chương trình hành động, xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường hằng năm để triển khai rộng khắp đến tất cả các đơn vị trên địa bàn huyện. Trong đó, chú trọng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và nâng cao nhận thức của người dân về tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Phát động toàn dân tham gia công tác tổng vệ sinh môi trường hàng tuần vào chiều chủ nhật, tạo nhận thức và trách nhiệm của người dân, của cộng đồng về xây dựng cảnh quan nông thôn, đô thị. Tổ chức thực hiện các mô hình “trồng hoa thay thế cỏ dại ven đường”, “thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật trên các cánh đồng”... Trên địa bàn huyện có 02 Nhà máy nước sạch (thị trấn Thọ Xuân, Khu đô thị Lam Sơn-Sao Vàng), hiện mới phục vụ cho các thị trấn, người dân các xã còn lại đang chủ yếu dùng hệ thống nguồn nước nhỏ lẻ hộ gia đình và kết hợp máy lọc nước gia định (máy R.O). Ủy ban nhân dân tỉnh đã có văn bản chấp thuận chủ trương cho Công ty Miền Tây thực hiện dự án mở rộng và cung cấp nước sạch tại 30 xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn các xã đã dần đi vào nề nếp. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm được quản lý và kiểm tra thường xuyên. Tình hình an toàn thực phẩm cơ bản được đảm bảo.

Đến cuối năm 2019, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh ở 36 xã nông thôn mới đạt 99,7%, tương ứng với 49.426/49.576 hộ (tăng 25,8% so với năm 2011), trong đó, có 77,8% hộ sử dụng nước sạch. Tỷ lệ cơ sở sản xuất - kinh doanh nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định về bảo vệ môi trường là 3.582/3.582 cơ sở, đạt 100%, tăng 17,8% so với năm 2011. Chất thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập trung, cơ sở sản xuất kinh doanh được thu gom và xử lý theo quy định. Tỷ lệ hộ gia đình tại 36 xã nông thôn mới có nhà tiêu, nhà tắm, bể chứa nước hợp vệ sinh và đảm bảo 03 sạch là 43.849/49.576 hộ, đạt 88,4%, tăng 33,2% so với năm 2011. Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường là 14.487/16.711 hộ chăn nuôi, đạt 86,7%, tăng 13,1% so với năm 2011. Tỷ lệ hộ gia đình và cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đạt 100%. Việc mai táng 100% được thực hiện phù hợp với quy định và theo đúng quy hoạch.

Đến hết năm 2019, trên địa bàn một số xã đã bắt đầu hình thành những tuyến đường cây xanh, đường hoa. Toàn huyện đã trồng được trên 148 km đường hoa dọc các trục đường xã, đường thôn và liên thôn, tạo cảnh quan khá đẹp.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng được quan tâm. Toàn huyện có 2.320 cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Trong đó số cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm cấp huyện quản lý 114 cơ sở. Các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể, thức ăn đường phố thực hiện việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, hoặc ký cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm với Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện và cơ quan quản lý An toàn thực phẩm cấp tỉnh theo quy định. Nhiều năm liền trên địa bàn huyện không xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể.

5. Xây dựng hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội

Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là điều kiện tiên quyết để chung sức xây dựng nông thôn mới. Thông qua thực hiện chương trình, đội ngũ cán bộ được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, có phẩm chất chính trị vững vàng, năng động, sáng tạo, có bước trưởng thành trong quản lý, chỉ đạo điều hành, nhiều địa phương có những cán bộ dám nghĩ, dám làm, gần dân; quy chế dân chủ được phát huy, vai trò làm chủ của Nhân dân được nâng lên, động viên được tinh thần chung sức, chung lòng của Nhân dân, của cả hệ thống chính trị.

Tính đến năm 2019, Thọ Xuân có 100% số xã có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định. Hằng năm 100% các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở đều đạt loại khá trở lên. 100% Đảng bộ các xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”. Chính quyền các xã đạt tiêu chuẩn “tập thể lao động tiên tiến”. 36 xã xây dựng nông thôn mới hiện có 712 cán bộ, công chức cấp xã có đủ trình độ chuyên môn và lý luận chính trị phục vụ công tác, 100% đạt chuẩn theo tiêu chuẩn quy định của Bộ Nội vụ; 36/36 xã có đầy đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị theo quy định và hoạt động có hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường hướng về cơ sở để tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân tham gia xây dựng nông thôn mới với từng việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả, hằng năm được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. Công tác giám sát, phản biện xã hội được tổ chức hiệu quả, nhất là việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, từ đó tạo sự tin tưởng của Nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền.

Công tác xây dựng quốc phòng toàn dân được tập trung đẩy mạnh. Duy trì chế độ sẵn sàng chiến đấu. Thường xuyên làm tốt công tác tổ chức, biên chế lực lượng; Tăng cường và nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh, huấn luyện dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên. Hằng năm, hoàn thành xuất sắc công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; đảm bảo các chính sách hậu phương quân đội. Tổ chức diễn tập và tham gia đầy đủ các hội thi, hội thao quân sự do các cấp tổ chức đạt kết quả cao; 36/36 xã trên địa bàn huyện đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng tiêu chí về quốc phòng.

Huyện và các xã trên địa bàn huyện đã xây dựng, triển khai, chỉ đạo quyết liệt các phương án, kế hoạch phòng chống tội phạm, phòng chống cháy nổ, tệ nạn xã hội; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Công an, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể trong việc đẩy mạnh thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; thực hiện tốt công tác quản lý hành chính về trật tự, xã hội, công tác quản lý cư trú, quản lý các ngành nghề kinh doanh. Công tác phòng ngừa, chủ động tấn công, trấn áp các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, đảm bảo an toàn giao thông được tăng cường thực hiện. Nhờ đó trong những năm qua hoạt động tội phạm trên địa bàn huyện được kiềm chế, các vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm. Các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đều đạt “xã bình yên về an ninh trật tự”, lực lượng Công an các xã đều được công nhận đơn vị tiên tiến trở lên trong 2 năm 2017-2018,

6. Huy động, sử dụng nguồn lực

Chương trình xây dựng nông thôn mới đã huy động được nhiều nguồn lực để thực hiện, trong đó mức độ tham gia của người dân đạt cao hơn các chương trình Mục tiêu quốc gia khác. Từ khi triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới năm 2011 đến năm 2019, toàn huyện đã huy động tổng nguồn vốn đạt 7.019,55 tỷ đồng, trong đó: Ngân sách Trung ương là 141,65 tỷ đồng, chiếm 2,02%; Ngân sách tỉnh là 185,8 tỷ đồng, chiếm 2,65%; Ngân sách huyện là 680,8 tỷ đồng, chiếm 9,7%; Ngân sách xã là 1.116,8 tỷ đồng, chiếm 15,91%; Doanh nghiệp, Hợp tác xã là 256,8 tỷ đồng, chiếm 3,66%; Vốn vay tín dụng là 655,6 tỷ đồng, chiếm 9,33%; Nhân dân tham gia (tiền mặt, ngày công lao động, hiến đất, chỉnh trang nhà ở, vườn tạp...) là 3.869,2 tỷ đồng, chiếm 55,12% (trong đó, đóng góp tiền mặt là 93,3 tỷ đồng; 515.000 công lao động = 61,8 tỷ đồng; hiến đất quy ra tiền là 55,8 tỷ đồng; xây dựng nhà cửa, chỉnh trang vườn tạp là 3.658,3 tỷ đồng); nguồn khác: 112,9 tỷ đồng, chiếm 1,61%.

Để đảm bảo quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, Ủy ban nhân dân huyện đã phân bổ, quản lý, sử dụng đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng mục đích, đúng đối tượng và nguồn lực chủ yếu trong đầu tư, hỗ trợ các xã thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Ngân sách cấp huyện ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện các tiêu chí giao thông, thủy lợi, hệ thống điện nông thôn, trường học, trạm y tế, cơ sở vật chất văn hóa xã, thôn, đầu tư phát triển sản xuất.

Nguồn vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án trên địa bàn, huyện đã chỉ đạo các chủ đầu tư tập trung triển khai có trọng tâm, trọng điểm; trong đó ưu tiên đầu tư các công trình phục vụ phát triển sản xuất, phục vụ dân sinh như: Công trình kiên cố hóa kênh mương, công trình nước sạch, xử lý rác thải, giao thông, trường học, trạm y tế...

Nguồn vốn của Nhân dân đóng góp, nguồn vốn hỗ trợ, tài trợ của các tổ chức, cá nhân và nguồn vốn khác được thực hiện đúng quy định, đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ, do người dân tự bàn bạc, quyết định, thực hiện đúng quy chế dân chủ, không áp đặt. Nhân dân trực tiếp quản lý, quyết định đầu tư theo đúng các hạng mục trong Đề án đã được phê duyệt.

Việc huy động nguồn đóng góp của Nhân dân phục vụ xây dựng nông thôn mới là phù hợp, không quá sức dân và đúng đối tượng, không gây bức xúc trong Nhân dân. Nguồn vốn hỗ trợ xây dựng nông thôn mới của cấp trên, vốn lồng ghép các chương trình dự án và vốn đóng góp của Nhân dân được quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích, công khai minh bạch.

7. Kết quả thực hiện tiêu chí xây dựng nông thôn mới

Khi triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, qua rà soát ban đầu theo Quyết định số 766/QĐ-UBND ngày 28/5/2012 của Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân, về việc công nhận số tiêu chí xây dựng nông thôn mới đạt được của các xã, toàn huyện mới đạt 210 tiêu chí, bình quân đạt gần 5,7 tiêu chí/xã. Đến cuối năm 2012, tổng số tiêu chí đạt được của các xã là 282 tiêu chí, tăng 72 tiêu chí, bình quân đạt 7,6 tiêu chí/xã, tăng 1,9 tiêu chí/xã. Cuối năm 2013 tăng lên 416 tiêu chí, tăng 206 tiêu chí so với khi rà soát ban đầu thực hiện Chương trình; bình quân toàn huyện đạt 11,24 tiêu chí/xã. Đến tháng 12 năm 2014, tổng số tiêu chí đạt được trên địa bàn toàn huyện là 506 tiêu chí, bình quân đạt 13,67 tiêu chí/xã, tăng 296 tiêu chí so với năm 2012. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy huyện và cơ sở, đến cuối năm 2014, đã có 05 xã đạt 19/19 tiêu chí là Xuân Giang, Hạnh Phúc, Thọ Xương, Xuân Thành và Xuân Quang.

Đến cuối năm 2015, thực hiện chương trình giai đoạn 2011 - 2015, tổng số tiêu chí trên địa bàn toàn huyện đạt 529 tiêu chí, bình quân 14,3 tiêu chí/xã, tăng 8,7 tiêu chí so với khi bắt đầu triển khai, 10 xã hoàn thành 19 tiêu chí, gồm: Thọ Xương, Xuân Lam, Xuân Hòa, Xuân Trường, Xuân Giang, Hạnh Phúc, Xuân Quang, Tây Hồ, Xuân Thành và Xuân Minh. Các xã còn lại cơ bản hằng năm hoàn thành từ 2-3 tiêu chí.

Bên cạnh triển khai thực hiện các tiêu chí cấp xã, việc tổ chức triển khai thực hiện các tiêu chí thôn đạt chuẩn nông thôn mới cũng được tiến hành song song, đồng bộ. Ngày 17/3/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 717/2014/QĐ-UBND về việc ban hành Quy định về tiêu chí, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận và tổ chức công bố “Thôn đạt chuẩn nông thôn mới” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Huyện đã chỉ đạo các xã đăng ký “thôn đạt chuẩn nông thôn mới” trong năm và rà soát, hoàn thiện hồ sơ đề nghị huyện thẩm định, công nhận đạt chuẩn nông thôn mới cho các thôn hoàn thành xây dựng nông thôn mới theo quy định. Hội đồng thẩm tra tiêu chí nông thôn mới huyện đã tiến hành thẩm tra và đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ra quyết định công nhận 99 thôn đạt chuẩn thôn nông thôn mới năm 2014. Đến hết năm 2015, toàn huyện có 122 thôn hoàn thành 14 tiêu chí thôn nông thôn mới.

Với sự nỗ lực cố gắng của Đảng bộ, chính quyền huyện Thọ Xuân, đến hết năm 2017, tổng số tiêu chí trên địa bàn toàn huyện đạt 641 tiêu chí, bình quân 17,8 tiêu chí/xã. Có 28 xã hoàn thành 19 tiêu chí và đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Các xã còn lại cơ bản hằng năm hoàn thành từ 1-2 tiêu chí. Đến cuối năm 2018, tổng số tiêu chí trên địa bàn toàn huyện đạt 684 tiêu chí, bình quân 19 tiêu chí/xã. Có 36/36 xã hoàn thành 19 tiêu chí và được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 100%, trong đó, số xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới trước năm 2017 theo Bộ tiêu chí quốc gia 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 4296/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa là 18 xã; số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới từ năm 2017 đến nay theo Bộ tiêu chí quốc gia 1980/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 1415/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa là 18 xã.

Bên cạnh đó, hằng năm huyện tiếp tục chỉ đạo các xã đăng ký thôn đạt chuẩn nông thôn mới và tiến hành rà soát, hoàn thiện hồ sơ đề nghị huyện thẩm định, công nhận thôn đạt chuẩn nông thôn mới theo quy định tại Quyết định số 2392/2017/QĐ-UBND ngày 6/7/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa về việc Ban hành quy định về tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận và công bố “Thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2017 - 2020. Đến cuối năm 2017, toàn huyện có 172 thôn đạt chuẩn thôn nông thôn mới. Đến cuối năm 2018, có 177 thôn đạt chuẩn thôn nông thôn mới; các thôn còn lại tiếp tục hoàn thiện và lập hồ sơ đề nghị xét công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2018.

Song song với việc đẩy mạnh hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới ở các thôn, các xã và cấp huyện, huyện Thọ Xuân cũng đã triển khai xây dựng thôn, xã nông thôn mới kiểu mẫu.

Năm 2017, thôn 3, xã Xuân Giang được lựa chọn là thôn điểm của tỉnh về xây dựng thôn nông thôn mới kiểu mẫu cùng một số thôn khác trên địa bàn huyện. Qua công tác chỉ đạo được sự thống nhất cao của Nhân dân trong thôn, thôn 3 xã Xuân Giang đã đạt được kết quả tích cực: Tổng nguồn vốn huy động khoảng 1,55 tỷ đồng, trong đó, vốn Trung ương, tỉnh, huyện hỗ trợ là 459,9 triệu đồng; vốn xã là 209,35 triệu đồng; vốn Nhân dân đóng góp là 880,75 triệu đồng. Ngày 30/12/2017, Hội đồng thẩm định thực hiện các tiêu chí thôn, khu phố kiểu mẫu đã tổ chức hội nghị thẩm định thôn 16B, Luận Văn 2 (Thọ Xương), thôn 3, thôn 12 (Xuân Giang), thôn Khải Đông (Xuân Hòa) đạt thôn kiểu mẫu năm 2017.

Năm 2019, huyện tiếp tục chỉ đạo xây dựng 10 xã nông thôn mới nâng cao. Đến cuối năm 2019, có 02 xã là Xuân Hòa và Bắc Lương đã hoàn thiện hồ sơ, đề nghị tỉnh công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các tiêu chí xây dựng huyện nông thôn mới cũng được đẩy mạnh. Căn cứ Thông tư số 35/TT-BNNPTNT ngày 26 tháng 12 năm 2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện tiêu chí huyện đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, hết năm 2018 huyện Thọ Xuân đã đạt 7/9 tiêu chí và đến tháng 7 năm 2019 đã hoàn thành 9/9 tiêu chí nông thôn mới cấp huyện, bao gồm các tiêu chí: Quy hoạch; Giao thông; Thủy lợi; Điện; Y tế - Văn hóa - Giáo dục; Sản xuất; Môi trường; An ninh trật tự và Chỉ đạo sản xuất.

Với sự nỗ lực cố gắng của cả cấp ủy, chính quyền và Nhân dân trong huyện, sau khi được tỉnh và Trung ương thẩm định, ngày 24/9/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1238/QĐ-TTg về việc công nhận huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa đạt chuẩn nông thôn mới năm 2019.

Ngày 26/10/2019, tại Trung tâm hội nghị huyện Thọ Xuân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá long trọng tiến hành Lễ công bố huyện Thọ Xuân đạt chuẩn huyện nông thôn mới năm 2019, đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba và Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ.

Sau gần 10 năm triển khai thực hiện, đến năm 2019 kết quả thực hiện nông thôn mới của huyện đã đạt được những thành tựu nổi bật:

Cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở đã lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khóa X; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI nhiệm kỳ 2015 - 2020 với tinh thần nghiêm túc, tích cực, đồng bộ và quyết tâm cao, tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, tư tưởng, hình thành và xác định bước đi, cách làm phù hợp với tình hình thực tế của huyện, có được sự hưởng ứng, tham gia nhiệt tình của đông đảo người dân thông qua các hành động, phong trào quần chúng sôi nổi; huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và các nguồn lực để thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn được tập trung đầu tư cải tạo, nâng cấp đồng bộ theo quy hoạch, kết nối với hạ tầng kinh tế - xã hội của huyện phát triển theo hướng hiện đại, sáng - xanh - sạch - đẹp, đáp ứng các nhu cầu về giao thông, điện, nước, hệ thống thông tin truyền thông phát triển đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nông thôn tiếp cận tri thức mới, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Kinh tế nông nghiệp, nông thôn có bước phát triển mới, chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô, hiệu quả cao hơn. Năng suất, chất lượng, giá trị hàng hóa sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng. Cùng với việc sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, đã tập trung chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ cao vào sản xuất; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá quy mô lớn, liên kết sản xuất tiêu thụ gắn với truy xuất nguồn gốc chất lượng nông sản. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp tiếp tục được củng cố, hoàn thiện.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề thu hút đầu tư vào địa bàn nông thôn đạt kết quả khá, góp phần tích cực giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động phi nông nghiệp. Kết quả phát triển công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề nông thôn và tái cơ cấu nông nghiệp, tạo việc làm, đã góp phần tích cực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Ý thức, nhận thức chính trị xã hội, pháp luật, trình độ sản xuất và đời sống của người nông dân được nâng cao hơn. Tổ chức hội nông dân thu hút được đông đảo nông dân tham gia, thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng tập hợp, đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nông dân.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế... tiếp tục phát triển. Các chính sách xã hội và an sinh xã hội đảm bảo kịp thời. Các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được bảo tồn và phát huy; các phong trào, hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao phát triển rộng khắp; ý thức cộng đồng, tình làng nghĩa xóm, các hoạt động nhân ái, từ thiện tiếp tục được khơi dậy và phát huy. Công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho Nhân dân được quan tâm; giáo dục và đào tạo của huyện luôn đứng ở tốp dẫn đầu của tỉnh.

Hệ thống chính trị, bộ máy chính quyền từ huyện đến cơ sở được củng cố, kiện toàn và hoạt động ngày càng chất lượng, hiệu quả; pháp lệnh dân chủ ở cơ sở được thực hiện thực chất hơn. An ninh chính trị và trật tự và an toàn xã hội được đảm bảo; phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” đạt kết quả tích cực, đảm bảo an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng trên địa bàn huyện.

Có được kết quả đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu như: Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn, đúng đắn, hợp lòng dân nên khi triển khai đã tạo được sự đồng thuận cao, sức lan tỏa lớn, thiết thực, sớm đi vào cuộc sống. Chương trình đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết, nỗ lực của Nhân dân; sự chỉ đạo sáng suốt của Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, huyện đã ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ để khuyến khích các địa phương tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là vận động được người dân chung sức tham gia đóng góp tiền, của, ngày công lao động để thực hiện các tiêu chí nông thôn mới như: thưởng cho các xã đạt chuẩn, hỗ trợ xi măng... Hơn nữa, trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, nhiều đơn vị xã có cách làm sáng tạo, tận dụng được lợi thế so sánh của địa phương để gia tăng nguồn lực. Cách thức huy động, quản lý cũng như sử dụng vốn có hiệu quả, phát huy được tính dân chủ của Nhân dân.

Từ những thành công qua chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ, chính quyền, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng:

- Một là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể: Thực tế chỉ ra rằng nơi nào các cấp ủy Đảng, chính quyền và tổ chức đoàn thể quan tâm, tập trung chỉ đạo cụ thể, sâu sát, quyết liệt, có cách làm năng động, sáng tạo, phát huy được lợi thế của địa phương, cán bộ đảng viên gương mẫu, Nhân dân nhiệt tình ủng hộ thì xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao. Trong xây dựng nông thôn mới, vai trò đội ngũ cán bộ rất quan trọng, do vậy cần tăng cường xây dựng, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, năng lực để tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Có quy chế phân công, phân cấp rõ ràng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai.

- Hai là, làm tốt công tác tuyên truyền vận động để cán bộ và Nhân dân nhận thức rõ vai trò chủ thể trong xây dựng nông thôn mới là người dân. Người dân phải tự làm là chính và họ là người được hưởng thụ, Nhà nước chỉ có vai trò hỗ trợ, lợi ích của người dân là động lực và sự tham gia của cộng đồng dân cư là bí quyết thành công. Từ đó tạo sự thống nhất về nhận thức, quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có sự tham gia của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp Nhân dân, huy động cao mọi nguồn lực của xã hội cả về trí tuệ, công sức và kinh phí để xây dựng nông thôn mới.

- Ba là, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, đảm bảo công khai cho các tổ chức đoàn thể, cán bộ, đảng viên và mọi người dân được tham gia đóng góp xây dựng và giám sát quá trình thực hiện quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Chủ động phân cấp để cộng đồng dân cư có thể trực tiếp tham gia xây dựng các công trình; phát huy vai trò giám sát của Ban giám sát cộng đồng để đảm bảo chất lượng công trình, phát huy hiệu quả vốn đầu tư để Nhân dân tin tưởng và tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, phát hiện những đơn vị làm tốt và những vấn đề còn tồn tại; kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, đánh giá sơ kết rút kinh nghiệm, nhân ra diện rộng những điển hình hay, cách làm sáng tạo.

- Bốn là, lựa chọn bước đi, cách làm phù hợp với điều kiện của huyện:

Trong phát triển sản xuất, đối với sản xuất nông nghiệp chọn quy hoạch vùng sản xuất, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, nông nghiệp công nghệ cao, liên kết theo chuỗi giá trị là khâu đột phá; thực hiện chuyển đổi lại cơ cấu, phương thức sản xuất để nâng cao hiệu quả là then chốt. Trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ chọn những sản phẩm, nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng, giao thông, điện nước, đào tạo nhân lực, dạy nghề... để khuyến khích phát triển nâng cao thu nhập cho người dân.

Trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, chọn giao thông nông thôn là khâu đột phá bắt đầu từ đường thôn, xóm, liên thôn, liên xã; lồng ghép các chương trình dự án về thủy lợi, cơ sở trường học, y tế, nước sạch, môi trường, nhà ở... để phục vụ Chương trình xây dựng nông thôn mới.

- Năm là, coi trọng chỉ đạo điểm và xây dựng mô hình, lựa chọn xã yếu nhất của huyện để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo; qua đó, đánh giá, rút kinh nghiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đồng thời là nơi thăm quan, học tập cho cán bộ và người dân trực tiếp nhìn thấy hiệu quả, lợi ích của việc xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất và đời sống của người dân như: làm đường giao thông nông thôn, dồn điền đổi thửa, trường học, trạm y tế, vệ sinh môi trường...

- Sáu là, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ chức, hộ gia đình có nhiều đóng góp xây dựng nông thôn mới trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên hệ thống truyền thanh về xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Trong thời gian tới, mục tiêu của huyện Thọ Xuân trong xây dựng nông thôn mới là tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới cấp xã, huyện theo hướng phát triển bền vững. Xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; hình thành các chuỗi liên kết sản xuất, làm tốt công tác vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn xanh - sạch - đẹp, giàu bản sắc văn hóa, an ninh - trật tự được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, dân trí nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; An ninh trật tự được đảm bảo, hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường, xây dựng Thọ Xuân trở thành huyện kiểu mẫu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

 



([1]). Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.92.

([2]). Sđd, tr.93.