Cổng thông tin điện tử huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa
THỌ XUÂN PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH HUYỆN NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO VÀO TRƯỚC NĂM 2024, ĐẾN NĂM 2025 TRỞ THÀNH MỘT TRONG NHỮNG HUYỆN DẪN ĐẦU CÁC PHONG TRÀO CỦA TỈNH, ĐẾN NĂM 2030 TRỞ THÀNH THỊ XÃ THỌ XUÂN
date

Chiến lược - Định Hướng - Quy hoạch

CHUYỂN HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA GIẶC MỸ CHI VIỆN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1965 - 1975)

Đăng lúc: 09/03/2021 (GMT+7)
100%

Chương VI

CHUYỂN HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA GIẶC MỸ CHI VIỆN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1965 - 1975)

 

I- ĐẢNG BỘ THỌ XUÂN LÃNH ĐẠO CHUYỂN HƯỚNG VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨNHẤT CỦA GIẶC MỸ

          Đầu năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta bước sang thời kỳ mới đầy gay go ác liệt. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân Mỹ và chư hầu cùng vũ khí hiện đại, thực hiện "Chiến tranh cục bộ" thay thế chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đã bị phá sản, đồng thời mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân và hải quân nhằm phá hoại công cuộc kiến thiết miền bắc, làm lung lay quyết tâm giải phóng đất nước của nhân dân ta. Thanh Hoá là một vị trí trọng yếu trên tuyến giao thông Bắc - Nam đã trở thành trọng điểm đánh phá thường xuyên của địch.

          Trong không khí khẩn trương, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của quân và dân miền Bắc, đầu năm 1965, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã được tổ chức. Đại hội đề ra biện pháp chuẩn bị thế trận toàn dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Tập trung lãnh đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng làng xã chiến đấu, tổ chức diễn tập chiến đấu và phục vụ chiến đấu, báo động phòng không sơ tán, đảm bảo trật tự an ninh và giao thông vận tải thông suốt. Đại hội đã phát động phong trào lao động sản xuất với tinh thần "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt", đẩy mạnh hơn nữa phong trào "Làm thuỷ lợi thắng Mỹ", thâm canh tăng năng suất cây trồng và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá IX gồm 19 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Lê Văn Lành được bầu làm Bí thư Huyện uỷ thay đồng chí Nghiêm Quý Ngãi được điều về tỉnh nhận công tác mới.

          Cùng với toàn dân miền Bắc, Thọ Xuân đã thực sự bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra. Địa bàn Thọ Xuân là nơi có đập Bái thượng, thuỷ điện Bàn Thạch, có quốc lộ 15A, tỉnh lộ 47 nối liền hệ thống giao thông giữa hậu phương lớn với tiền tuyến miền Nam và chiến trường nước bạn Lào, do đó đã trở thành một trọng điểm đánh phá của địch. Ngày 27-4-1965 nhiều máy bay Mỹ đã bắn 18 quả rốc két xuống khu vực Sao Vàng mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân trên đất Thọ Xuân. Tiếp đó, chỉ trong vòng hơn một tháng đầu của cuộc chiến tranh, giặc Mỹ đã dội bom xuống nhiều khu vực trọng điểm kinh tế, giao thông vận tải, quân sự trên địa bàn huyện, chúng còn dã man bắn phá bừa bãi vào nhiều khu dân cư trong huyện.

          Tại xã Xuân Khánh, máy bay Mỹ đã 2 lần ném bom (trong vòng 40 ngày) làm hơn 60 người chết và bị thương. Tiếp đó tháng 5-1965 chúng ném bom vào đoạn đê Xuân Tín làm chết 22 người ném bom chợ Đường (Tứ Trụ, Thọ Diên) làm chết hàng chục người. Chúng ném bom vào khu vực gần nhà thờ Hữu Lễ (Thọ Xương), phố Bái Thượng (Xuân Bái)... gây nhiều tổn thất về người và của cho nhân dân ta.

          Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh uỷ Thanh Hoá, ngày 18-6-1965, Huyện ủy Thọ Xuân dã ra Nghị quyết về chuyển hướng sự lãnh đạo Đảng bộ trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra 3 nhiệm vụ trọng tâm là: --   - Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa. Mục tiêu toàn huyện phấn đấu là đạt 5 tấn thóc/ha/năm. Duy trì, phát triển và nhân rộng điển hình tiên tiến trên mặt trận sản xuất nông nghiệp.

          - Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ mạnh để phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn các mục tiệu kinh tế, quốc phòng địa phương, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

          - Tuyên truyền giáo dục toàn dân thấm nhuần đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nâng cao cảnh giác cách mạng, ra sức đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.

          Quân và dân trong huyện đã quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt ba nhiệm vụ trên. Trước hết là việc thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Công tác phòng tránh được toàn huyện triển khai kịp thời. Các cơ quan chủ chốt của huyện, các xí nghiệp sản xuất đều được bố trí sơ tán về các vùng nông thôn hẻo lánh. Hệ thống hầm hào phòng tránh ở các làng, xã được xây dựmg. Do đó ở những nơi xảy ra chiến đấu, tính mạng và tài sản của nhân dân, của Nhà nước đã được bảo vệ, hạn chế thấp nhất thiệt hại do địch gây ra. Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở tất cả 37 xã, mỗi xã đều có 1 trung đội dân quân mạnh. Năm 1965 lực lượng tự vệ toàn huyện có 4.563 người. Ở các khu vực trọng điểm như Bái Thượng, phà Mục Sơn, Bàn Thạch, cầu Phúc Như... đều bố trí thành các cụm chiến đấu, lực lượng tác chiến là bộ đội chủ lực phối hợp với các đơn vị tự vệ của các xã lân cận. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, dân quân tự vệ Thọ Xuân đã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu hàng trăm trận, góp phần bảo vệ an toàn các mục tiêu quân sự, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trong huyện. Chỉ riêng năm 1965 toàn huyện đã có 4 xã, 22 trung đội dân quân được tặng danh hiệu “Đơn vị tiên tiến". Trung đội dân quân Hồng Hải (Bái Thượng, Xuân Bái) được tặng danhhiệu “Đơn vị Quyết thắng". Cuối năm 1965 dân quân xã Nam Giang đã dùng súng trường bắn rơi một máy bay Mỹ.

          Trong giai đoạn này, nhân dân Thọ Xuân còn tham gia hàng vạn ngày công chuyển hàng, cứu thương, tải thương phục vụ chiến đấu. Cuối năm 1965, Thọ Xuân đã thành lập một tiểu đoàn chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Sau khi thành lập, tiểu đoàn này đã lên đường ra mặt trận.

          Thực hiện quyết định Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về việc mở Công trường 101 xây dựng sân bay Sao Vàng. Toàn tỉnh Thanh Hoá đã huy động 10 ngàn thanh niên xung phong (huyện nhỏ 2 đại đội, huyện lớn 3 đại đội, riêng huyện Thọ Xuân huy động 4 đại đội cùng 500 công nhân lái máy ủi và ô tô vận tải (riêng lực lượng vận tải gồm 200 ô tô) do đồng chí Trần Dân làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Tôn Viết Nghiệm làm Chỉ huy phó kiêm Bí thư Đảng ủy, cùng một số cán bộ các ngành, các cấp trong tỉnh làm tham mưu giúp việc.

          Để phục vụ thi công tỉnh đã giao cho huyện Thọ Xuân huy động 3.000 người khai thác vận chuyển 5.000 m3 cát vàng, thành lập công trường khai thác đá ở núi Trầu (gần Mục Sơn), huy động 600 công nhân, 1 máy khoan đá, 1 máy xay đá cung cấp 5.000m3 đá có cỡ kích từ 2-6 ly...

          Để giải quyết nơi ăn, ở sinh hoạt cho lực lượng thanh niên xung phong trên công trường, Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã cung cấp hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm và vận động nhân dân 20 xã quanh khu vực cho mượn nhà. Để bảo vệ an toàn cho công trường, Bộ Quốc phòng đã tăng cường về Thọ Xuân 1 tiểu đoàn cao xạ 105 mm, Quân khu III, Tỉnh đội Thanh Hoá đã trang bị cho lực lượng phòng không Thọ Xuân cao xạ 57 ly, 37 lỵ, 14,5 ly và hàng ngàn súng bộ binh..., Công an tỉnh tăng cường một đơn vị bảo vệ.

Hơn một năm (từ 5-1965 đến tháng 6-1966) vừa thi công vừa tổ chức ngụy trang che mắt địch, vừa tổ chức chiến đấu, sân bay quân sự Sao Vàng được xây dựng thành công và đưa vào sử dụng.

          Từ đây, Đảng bộ nhân dân Thọ Xuân có thêm nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng phòng không tiếp tục tổ chức chiến đấu bảo vệ an toàn cho sân bay Sao Vàng.

          Trong hoàn cảnh vừa phải sản xuất, vừa phải chiến đấu nhưng Thọ Xuân đã không ngừng phấn đấu giành những thành tích quan trọng trên mặt trận kinh tế. Từ tháng 4 năm 1965 khi Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kêu gọi nông dân toàn tỉnh mở đợt thi đua “Chống Mỹ cứu nước" phấn đấu đạt 3 mục tiêu trong sản xuất nông nghiệp, phong trào thi đua "5 tấn thắng Mỹ" diễn ra sôi nổi ở khắp nơi trong tỉnh. Ở Thọ Xuân, số HTX tiên tiến và khá ngày càng nhiều, số HTX trung bình và kémđược thu hẹp dần. Các HTX đã áp dụng pháp kỹ thuật trong các khâu cơ bản như thuỷ lợi phân bón, giống, kiến thiết đống ruộng v.v... Năm 1965 toàn huyện đã đào đắp được 2.361.326 m3 đất thuỷ lợi, tính bình quân mỗi nhân khẩu đào đắp 18 m3. 11 tháng đầu năm 1966 đã đào đắp được hơn 2 triệu m3, góp phần khắc phục diện tích bị hạn úng thường xuyên. 75% diện tích toàn huyện được cấy giống chọn v.v... Việc chọn lọc và xử lý giống đã thành thói quen đối với nhiều HTX. Công cụ cải tiến cũng được tăng cường nhiều như cào cỏ 64A, xe vận chuyển v.v... Sản lượng lương thực toàn huyện ngày càng tăng: Năm 1964 là 33.118 tấn, năm 1965 tăng lên 38.286 tấn. Vụ đông xuân năm 1965-1966 năng suất bình quân toàn huyện đạt 2,2 tấn/ha, một số HTX đạt 2,8 tấn/ha. Khoai lang năm 1965 tăng hơn năm 1964 là 500 tấn, năm 1966 tăng hơn năm 1965 là 2.500 tấn. Đi đôi với trồng trọt, chăn nuôi lợn có chuyển biến khá, đưa tỷ lệ đầu lợn năm 1966 lên 8 con bình quân cho 1ha gieo trồng. Đàn lợn tập thể 87 cơ sở tăng lên 103 cơ sở. Các loại gia cầm đều phát triển,

          Sau khi hoàn thành công tác cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật, tư tưởng xã viên ổn định và yên tâm sản xuất hơn. Nhiều HTX đã làm tốt chính sách đối với gia đình có chồng con đi công tác B, C, thương binh, liệt sĩ, người già cả. Diện HTX khá và tiên tiến ngày càng mở rộng, diện HTX trung bình và kém thu hẹp dần.

          Hệ thống HTX mua bán, tín dụng đi sâu vào phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt HTX mua bán vẫn cố gắng phục vụ đời sống nhân dân.

          Thủ công nghiệp đã cung cấp nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu dùng cho nhân dân và các mặt hàng xuất khẩu như cót, thảm bẹ ngô v.v... Phong trào thâm canh tăng năng suất lúa phát triển cả bề rộng và bề sâu. Năm 1965 toàn huyện có 6 xã, 17 HTX đạt năng suất lúa trên 5 tấn/1ha. HTX Tháng Lợi (Xuân Thành) và Đông Phương Hồng (Thọ Hải) do áp dụng kỹ thuật trong việc đưa các giống lúa mới thay các giống lúa cũ, tích cực chăm bón nên đã đạt năng suất gần 7 tấn/ha. Thành tích đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi. Đây là niềm vinh dự lớn không chỉ đối với Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân mà cả với Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh. Đây là 2 HTX trong số 5 HTX trên toàn miền Bắc được Bác Hồ gửi thư khen. Huyện uỷ và UBHC huyện đã tổ chức long trọng lễ đón mừng thư Bác, phát động phong trào “Làm theo lời Bác, đuổi kịp và vượt các điển hình tiên tiến". Thành tích của 2 HTX tiên tiến tạo ra tiếng vang trên toàn miền Bắc, được nhiều địa phương đến tham quan học tập. Cuối năm 1966 Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm HTX Đông Phương Hồng và khen ngợi thành tích trong sản xuất, phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm có thu nhập cao (đạt 30% tổng thu nhập của HTX trong năm). Trong thâm canh lúa, khen ngợi hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo...          Tiếp tục thúc đấy phong trào thi đua yêu nước ngày 12 và 13-3-1966 tại Thọ Trường, Huyện uỷ và UBHC huyện đã tổ chức Đại hội nhân dân Anh hùng chống Mỹ cứu nước. 600 đại biểu của 37 xã và đại diện các khối công- nông-binh toàn huyện đã về dự. Đại hội biểu dương thành tích to lớn của nhân dân toàn huyện trên các mặt sản xuất và chiến đấu, chào mừng đại biểu của 2 HTX điển hình về thâm canh lúa giỏi được Bác Hồ gửi thư khen. Đại hội đã phát động phong trào thi đua " Đuổi kịp và vượt Thắng Lợi, Đông Phương Hồng".

          Trong thời kỳ này, Thọ Xuân cũng là địa điểm tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của tỉnh. Đầu năm 1966, Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn Thanh niên đã tổ chức Đại hội tổng kết phong trào Ba sẵn sàng tại xã Thọ Trường nhằm biểu dương và tổng kết kinh nghiệm nhân ruộng trong toàn tỉnh. Huyện Đoàn Thọ Xuân được đánh giá là huyện dẫn đầu phong trào toàn tỉnh. Năm 1965, Đoàn Thanh niên huyện được Tỉnh uỷ tặng cờ tiên tiến trong phong trào Ba sẵn sàng; Trung ương Đoàn tặng cờ "Nguyễn Văn Trỗi" cho 2 chi đoàn Thắng Lợi và Đông Phương Hồng; Tỉnh Đoàn tặng cờ “Ba sẵn sàng" cho 2 chi đoàn Xí nghiệp Lâm sản và xã Xuân Thiên. Kinh nghiệm tổ chức và chỉ đạo phong trào “Ba sẵn sàng" của huyện Thọ Xuân được phổ biến rộng.

          Tháng 4 năm 1966, tại xã Xuân Hoà, Tỉnh ủy và UBHC tỉnh đã tổ chức Đại hội đại biểu công- nông - binh chống Mỹ cứu nước toàn tỉnh. Đại hội đã được Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị và đồng chí Ngô Thuyền, Bí thư Tỉnh uỷ về dự. Để đảm bảo an toàn cho gần 1.000 đại biểu gồm các cán bộ cách mạng lão thành, cán bộ chủ chốt của tỉnh và huyện, các Anh hùng, Chiến sĩ thi dua, Chiến sĩ Quyết thắng, huyện Thọ Xuân đã huy động lực lượng xây dựng hội trường đào đắp hầm hào trú ẩn, tổ chức hệ thống báo động phòng không chặt chẽ. Đại hội đã tuyên dương công trạng chiến đấu, sản xuất và chi viện tiền tuyến của quân dân trong tỉnh. Tỉnh uỷ phát động phong trào thi đua 3 giỏi "Sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, giao thông vận tải giỏi"

          Để tổng kết, đánh giá các mặt công tác trong 2 năm chuyển hướng lãnh đạo của Đảng bộ trong tình hình vừa sản xuất, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tháng 12-1966 tại xã Xuân Hoà, 150 đại biểu thay mặt cho 4.395 đảng viên trong toàn huyện đã về dự Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ X. Đại hội đã phân tích, đánh giá những chuyển biến cụ thể, những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã giành được trên các mặt trận sản xuất, chiến đấu, đồng thời chỉ rõ khuyết điểm hạn chế cần khắc phục. Về công tác xây dựng Đảng, trong 2 năm qua, nhận thức tư tưởng của cán bộ đảng viên được nâng lên, tổ chức được củng cố vững mạnh hơn. Đến cuối năm 1966 có 61,2% đảng viên, 29,6% chi bộ, 31% tổ Đảng đạt tiêu chuẩn 4 tốt, 70% chi bộ nông thôn làm ruộng tăng sản. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ trong năm 1967: Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi dua với Đông Phương Hồng, phấn đấu đạt mục tiêu lúa 5 tấn, khoai 10 tấn, lợn trên 2 con bình quân cho lha gieo trồng, đưa 80% HTX lên tiên tiến, xoá HTX trung bình và kém. Về chiến đấu, bảo vệ trị an: Giáo dục quần chúng nâng cao nhận thức về âm mưu của địch, làm tốt công tác phòng không để trong bất kỳ tình huống nào cũng bảo vệ tốt tính mạng, tài sản của nhân dân. Về công tác xây dựng Đảng: Phấn đấu đến hết năm 1967 trở thành Huyện Đảng bộ 4 tốt, 80% chi bộ và 90% đảng viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt. Đại Hội đã bầu Ban Chấp hành Huyện Đảng bộ khoá X gồm 23 đồng chí, đồng chí Lê Văn Lành được bầu làm Bí thư Huyện uỷ (1) .

          Bước vào vụ đông xuân năm 1967, toàn huyện được mùa lớn, năng suất bình quân đạt 2.200 kg thóc/ha. Nhưng vụ mùa do hạn hán nặng nên gần hết thời vụ toàn huyện mới cấy được hơn 1/3 diện tích, có nơi chỉ cấy được 1/5 diện tích. Trước tình hình trên, tháng 7-1967 Ban Thường vụ Huyện uỷ đã ra nghị quyết mở đợt tập trung cao độ cho vụ mùa với quyết tâm là: " Toàn dân, toàn Đảng tập trung cao độ cho vụ mùa, phấn đấu toàn huyện cấy xong trước ngày 20-8-1967". Phải làm ngày, làm đêm, làm tranh thủ vào bất cứ thời gian nào, động viên 50% cán bộ, công nhân viên chức các ngành tham gia sản xuất.

Do có chỉ đạo sát sao, kịp thời nên năm 1967 toàn huyện có 15 xã, 41 HTX đạt 5 tấn thóc/ha trở lên. Các HTX Đông Phương Hồng (Thọ Hải), Thắng Lợi (Xuân Thành), Hạnh Phúc đat 7 tấn/ha. Khu tả ngạn sông Chu có nhiều khó khăn nhưng cũng có 3 xã, 14 HTX đạt 5 tấn/ha trong đó có HTX Thắng Lợi (Phú Yên) đạt 6,1 tan/ha. Năm 1967 tại Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc, đồng chí Lê Trọng Đồng, Chủ nhiệm HTX Thắng Lợi (Xuân Thành) đã được tuyên dương Anh hùng Lao động.       

Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các cấp, các ngành trong huyện vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thi đua với phong trào "Ba sẵn sàng" của thanh niên, phụ nữ Thọ Xuân đã sôi nổi hưởng ứng phong trào "Ba đảm đang", vươn lên đảm trách mọi công việc. Toàn huyện đã đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt 14 chị làm chủ tịch xã, 6 chị là Bí thư Đảng uỷ xã, 16 chị là Phó Chủ tịch UBHC xã, 1/3 thành viên Ban quản trị các HTX do phụ nữ đảm nhiệm. Trong hội nghị tổng kết công tác cán bộ nữ của tỉnh tại xã Bắc Lương (tháng 5-1967) Thọ Xuân đã được đánh giá là một trong những đơn vị điển hình.   

          Ngành Giáo dục Thọ Xuân có những chuyển biến mới. Sau khi giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, tất cả các trường học trong huyện đã sơ tán triệt để về các thôn xóm xa các trọng điểm đánh phá của địch, đảm bảo an toàn cho việc giảng dạy và học tập.

          Công tác quân sự, trị an, được chú trọng, lực lượng vũ trang địa phương được củng cố, số đảng viên tham gia dân quân chiếm 66,5%. Các đơn vị dân quân của huyện đã thành lập nhiều đội trực chiến để bảo vệ các khu vực trọng điểm mà địch thường xuyên đánh phá. Ngày 09-9-1967, hai đơn vị dân quân của Nam Giang và Bắc Lương đã phối hợp chiến đấu bắn rơi một máy bay AD4 của địch ngay từ loạt đạn đầu. Năm 1967 có 4 đơn vị xã đạt Quyết thắng là Xuân Thành, Hạnh Phúc, Xuân Lai và Thọ Hải, 9 trung đội dân quân ở các xã trong huyện được công nhận là đơn vị Quyết thắng. Dân quân các xã trong huyện đã cùng với bộ đội chủ lực xây dựng công sự, hợp đồng chiến đấu. Nhiều gia đình trong những ngày địch bắn phá ác liệt đã nấu cơm mang đến tận trận địa cho bộ đội. Nhân dân các xã xung quanh sân bay Sao Vàng đã cùng bộ đội đào hào giao thông, xây dựng công sự, cứ mỗi xóm đắp 1 ụ lớn cho máy bay sơ tán ẩn nấp. Riêng xã Thọ Lâm có 1 trung đội dân quân trực tiếp gồm 35 người được trang bị đầy đủ vũ khí và dụng cụ tài thương đã cùng bộ đội chiến đấu hàng trăm trận, góp phần bảo vệ an toàn sân bay. Nhân dân trong xã còn giúp đỡ B5 xăng dầu đào hào giao thông từ thôn ra tận nơi tiếp tế cho máy bay. HTX Ngọc Lâm (xã Thọ Lâm) đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Tại khu vực đập Bái Thượng, trọng điểm thường xuyên đánh phá, quân và dân trong huyện đã tổ chức các trận địa phòng không trực chiến ngày đêm, kịp thời đánh trả máy bay địch. Đồng thời thực hiện các phương án bảo vệ như: Thả rọ thép. đá hộc, làm đập quai xanh phía thượng lưu dể chống thuỷ lôi v. v... Nhờ vậy, đập Bái Thượng - công trình thuỷ lợi lớn nhất tỉnh được bảo vệ vững chắc.

          Ngày 21 và 22-8-1968 đế quốc Mỹ đã cho máy bay ném bom mỗi ngày hàng chục lần vào âu Phong Lạc và thuỷ điện Bàn Thạch làm công trình bị hư hỏng nặng. Hơn 6.000 ha lúa của một số huyện trong tỉnh đang chuẩn bị trổ bông mất nguồn nước. Trước tình hình đó, huyện đã huy động hàng ngàn lao động, chủ yếu là dân quân tự vệ trong huyện nhanh chóng sửa chữa đưa công trình vào hoạt động. Sáng ngày 02-9-1968 âu Phong Lạc kịp thời đưa nước tưới cho những cánh đồng đang khô hạn.

Công tác tuyển quân, vào bộ đội và thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, luôn hoàn thành vượt chỉ tiêu được giao. Một số xã như Xuân Thành là đơn vị dẫn đầu về công tác tuyển quân, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.

          Tháng 6 năm 1968, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XI được tổ chức tại xã Xuân Hoà nhằm đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ 1966-1968 trên các mặt sản xuất, chiến đấu, tổ chức đời sống, công tác xây dựng Đảng. Đại hội đã nhấn mạnh nhiệm vụ của năm 1968-1969 là "Tổng tiến công vào điểm yếu kém, đuổi kịp và vượt tiên tiến", nhằm đạt và vượt mục tiêu 5 tấn, 2 con lợn/ha gieo trồng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Huyện Đảng bộ khoá XI gồm 27 đồng chí và Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí ". Đồng chí Lê Văn Lành được bầu lại làm Bí thư Huyện uỷ. Ngay sau Đại hội, Huyện uỷ đã ra nghị quyết “Tấn công vào trọng điểm yếu kém", thành lập tổ phái viên gồm 6 đồng chí biệt phái về các xã yếu kém chỉ đạo phong trào.

          Năm 1968, mặc dù tình hình khách quan không thuận lợi, sản xuất nông nghiệp vẫn giành được những thắng lợi to lớn. Phong trào thi đua học tập đuổi kịp và vượt Đông Phương Hồng, Hạnh Phúc phát triển mạnh, phong trào thâm canh tăng năng suất cây trồng trên toàn bộ diện tích có nhiều tiến bộ. Toàn huyện có 114 HTX với 956 đội sản xuất, qua cải tiến quản lý vòng 2 đã có 100% HTX chuyển lên bậc cao, 74 HTX đi vào tưới tiêu chủ động. Toàn huyện nấu được 5.700 tấn vôi bón ruộng, trồng được 5.900 mẫu điền thanh giống mới (Nông nghiệp 8, Khe năm lùn) chiếm 90% diện tích, 80% số đội sản xuất thực hiện việc khoán nhóm, khoán việc. Nhờ vậy, năm 1968 Thọ Xuân là huyện dẫn đầu phong trào thâm canh trong toàn tỉnh, đạt mục tiêu 5 tấn thóc/ha. Riêng vụ mùa năng suất lúa bình quân là 2.560 kg, đưa năng suất lúa cả năm đạt 5.134 kg, có 20 xã với 62 HTX giành 5 tấn trở lên.

          Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tỉnh uỷ, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, ngày 20 - 11 - 1968 tại địa điểm sơ tán, Huyện uỷ Thọ Xuân tổ chức lễ kết nghĩa giữa huyện Thọ Xuân và huyện Quế Sơn (Quảng Nam). Dự lễ có đại diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh Hoá, đại diện tỉnh Quảng Nam và huyện Quế Sơn cùng đông đảo cán bộ các ban, ngành, đoàn thể. Lễ kết nghĩa Thọ Xuân - Quế Sơn đánh dấu sự đoàn kết chiến đấu vì độc lập tự do và CNXH của nhân dân 2 huyện. Nhân dân Thọ Xuân đã chi viện tối đa sức người, sức của cho tiến tuyến lớn miền Nam, cho tỉnh Quảng Nam và huyện Quế Son.

 

II - KHẮC PHỤC HẬU QUẢ

CHIẾN TRANH TIẾP TỤC XÂY DỰNG

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1969 - 1972)

           Bước sang năm 1969, tình hình cách mạng cả nước có những chuyển biến mới. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược mới “Việt Nam hoá chiến tranh". Ở miền Bắc, nhân dân ta bắt tay vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời tăng cường chi viện cho cách mạng miền Nam.

          Là huyện đầu tiên trong tỉnh đạt mục tiêu đạt 5 tấn thóc/ha/năm. Thọ Xuân đã được chọn làm địa điểm mở Hội nghị tổng kết kinh nghiệm thâm canh nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Đầu năm 1969, Hội nghị đã diễn ra tại xã Bắc Lương, thành phần gồm toàn thể các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh và các huyện vùng trọng điểm lúa. Đồng chí Lê Văn Tập, Chủ tịch UBHC huyện Thọ Xuân đã báo cáo một số biện pháp mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện thực hiện để đạt mục tiêu 5 tấn/ha. Đó là các biện pháp : Đẩy mạnh thuỷ lợi, hoàn chỉnh thuỷ nông chủ động tưới tiêu; đưa vào đồng ruộng bộ giống mới và mạnh dạn nhân rộng trên địa bàn toàn huyện, đẩy mạnh phong trào làm phân bón. ứng dụng các biện pháp kỹ thuật vào thâm canh, xem nhiệm vụ lãnh đạo sản xuất là một mục tiêu xây dựng chi bộ 4 tốt, đảng viên 4 tốt v.v...

          Sau hội nghị, Tỉnh uỷ Thanh Hoá chủ trương phát động thi đua làm theo lời Bác và học tập kinh nghiệm Thọ Xuân phấn đấu đạt mục tiêu 5 tấn trên địa bàn toàn tỉnh.

          Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI. Đảng bộ, nhân dân trong huyện đã phấn đấu không ngừng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Năm 1969 toàn huyện gieo cấy 62% diện tích bằng các giống lúa mới, giải quyết tốt khâu thuỷ lợi, khắc phục được 80% diện tích bị hạn, 77% diện tích bị úng. Nhờ đó diện tích lúa chiêm tăng 6%, cây công nghiệp tăng 9% so với năm 1968. Năng suất lúa chiêm đạt bình quân 2.266 kg, 32 HTX đạt từ 2.020 đến 3.160 kg. Vụ mùa 1969 nắng hạn gay gắt kéo dài, sâu bệnh phát triển nên năng suất giảm hơn.

          Về chăn nuôi đàn gia súc tăng, đàn lợn nái tăng hơn 1968 là 10,3% nên đã giải quyết được vấn đề cung cấp giống cho xã viên, đàn lợn thịt có 44.377 con. Đàn trâu, bò tăng 3 - 4%. Toàn huyện có 12 trại chăn nuôi tập thể với 642 con trâu, bò.

          Quá trình phấn đấu đạt năng suất cao là quá trình không ngừng củng cố HTX, đưa cách mạng khoa học kỹ thuật vào thâm canh. Đến năm 1969 toàn huyện có hàng chục HTX quy mô toàn xã, binh quân mỗi HTX có 132 ha ruộng đất, 480 lao động, 75% số đội sản xuất có nhà chế biến phân (trong đó có 50% bằng gạch ngói), 60% HTX trang bị cơ khí nhỏ như máy nổ, máy xát, máy vò tuốt lúa, máy bơm nước. Số xe vận chuyển tăng gấp 2 lần năm 1968.

          Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1969 tăng 10% so với năm 1967, Xí nghiệp Nông cụ đã tự chế được các loại máy sản xuất nông cụ như diệp cày, lưỡi cày... Đồ sành Xuân Thiên năm 1968 là 14.950 đồng, năm 1969 tăng lên 56.000 đóng. Giá trị thủ công nghiệp năm 1968 dạt 887.000 đồng, năm 1969 đạt 945.000 đồng.

          Thương nghiệp, tài chính, ngân hàng phục vụ sản xuất và đời sống một cách toàn diện. Doanh số mua vào bán ra năm 1968 đạt 124 %. Năm 1969 đạt 130%. Nhiều đơn vị khá như: thực phẩm, vật liệu kiến thiết, điện máy, nông sản v.v.... Hợp tác xã mua bán được củng cố và đã thu mua hàng hoá nông nghiệp được 342.000 đồng.

          Các ngành, các cấp học trong huyện phát triển mở rộng. Giáo dục phổ thông các cấp tăng lên 8.299 em, cấp 1 thi đỗ 87%, cấp 2 là 78%, cấp 3 là 90%. Công tác vệ sinh phòng bệnh được chú ý, kịp thời ngăn chặn được một số dịch bệnh. Phong trào xây dựng nhà tiêu, giếng nước, phát triển mạnh.

           Đoàn Thanh niên đẩy mạnh phong trào thi đua "Ba sẵn sàng" phong trào "6 tấn thắng Mỹ", nhận ruộng xấu chăm bón thành ruộng tốt. Vụ mùa năm 1968 Đoàn Thanh niên làm cánh đồng 6 tấn chiếm 25% diện tích, năng suất bình quân 6.160 kg/ha; Hội Phụ nữ đã phát huy vai trò là lực lượng chủ lực trong sản xuất, đảm đang việc nhà, động viên chồng đi chiến đấu.

          Công tác xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu , bảo vệ trật tự trị an được Huyện uỷ và UBHC huyện quan tâm chỉ đạo. Tháng 3 năm 1969 Hội nghị Ban Thường vụ Huyện uỷ đã đánh giá công tác quân sự trong 2 năm 1967 - 1968 và ra Nghị quyết về tăng cường xây dựng dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu trong tình hình mới. Công tác tuyển quân năm 1969 toàn huyện hoàn thành 100%.

          Đảng bộ và hệ thống chính trị đoàn kết thống nhất khắc phục khó khăn gian khổ hoàn thành. nhiệm vụ. Nhiều Đảng bộ xã đã tổ chức xin ý kiến xây dựng của quần chúng và làm tốt đấu tranh phê, tự phê trong nội bộ Đảng. Nhờ đó tỷ lệ đảng viên và chi bộ 4 tốt ngày càng tăng.

          Năm 1966 đảng viên 4 tốt đạt 34,4%, chi bộ 4 tốt đạt 47,7% thì đến năm 1969 đảng viên 4 tốt tăng lên 38,5%, chi bộ 4 tốt tăng lên 51%... Hầu hết đảng viên được phân công làm công tác quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, làm công tác quần chúng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.   

          Đầu năm 1970, Trung ương Đảng phát động ba cuộc vận động lớn : Vận động sản xuất tăng cường chế độ làm chủ tập thể và nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Tháng 5 năm 1970 Thường vụ Huyện uỷ Thọ Xuân đã trực tiếp chỉ đạo triển khai các cuộc vận động trên tại xã Bắc Lương để rút kinh nghiệm nhân ra diện rộng.

          Tháng 6 năm 1970 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XII đã được tổ chức tại Hội trường Đông Phương Hồng (Thọ Hải). Đại hội đã nâng cao một bước nhận thức, sức chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công nhằm thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và Tỉnh uỷ. Đại hội đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn 1970 - 1972 là: tích cực chi viện cho tiền tuyến góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, phát triển kinh tế của địa phương, tập trung giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.

          Đại hội đã bầu Huyện ủy khoá XII gồm 29 đồng chí . Đồng chí Lê Văn Lành tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

Thực hiện ba cuộc vận động lớn do Trung ương Đảng phát động và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII, trong những năm 1970 - 1972 tình hình mọi mặt trong huyện tiếp tục chuyển biến tiến bộ.

          Năm 1970 mặc dù thời tiết không thuận lợi (hạn hán, rét, sâu bệnh phá hoại) nhưng Thọ Xuân vẫn là ngọn cờ đầu trong lĩnh vực thâm canh tăng năng suất. Toàn huyện có 7 chỉ tiêu đạt và vượt so năm 1969. Diện tích lúa mùa là : 28.661 mẫu (tăng 476 mẫu), năng suất đạt 295 tạ/ha. Tổng sản lượng cả năm đạt 36.573 tấn, tăng gần 5.000 tấn. Phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt Đông Phương Hồng, Hạnh Phúc phát triển mạnh. Năm 1970 có 60% HTX, 25 xã đạt 5 tấn trở lên. Có 3 xã đạt năng suất trên 7 tấn là Hạnh Phúc 7.994kg, Thắng Lợi, Xuân Thành đạt 7.594kg/ha. Đông Phương Hồng đạt 8.020 kg/ha và có 11 HTX đạt trên 6 tấn/ha.

          Thắng lợi của sản xuất nông nghiệp năm 1970 là kết quả của nhiều nhân tố, nhưng then chốt vẫn là việc đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng. Vụ đông xuân 1970 huyện đã cấy 38% diện tích lúa bằng các giống Nông nghiệp 8, Trân châu lùn... Có xã như Hạnh Phúc gieo cấy 100% giống lúa mới đạt năng suất 4,2 tấn/ha vụ chiêm, Đông Phương Hồng cấy 80% diện tích đạt năng suất 4.000 kg/ha v.v.. Vụ mùa huyện cũng cấy 30 % giống Nông nghiệp 5 và Nông nghiệp 8.

           Các khâu thuỷ lợi, phân bón cũng được đẩy mạnh, năm 1970 đã đào đắp kiến thiết đồng ruộng với khối lượng 239.577 m3 , chủ động tưới tiêu cho 4.165 ha, chiếm 73% diện tích. Nhiều xã có phong trào làm bèo dâu, trồng điền thanh, phân xanh, tận dụng phù sa, bùn ao, nước tiểu tăng nguồn phân bón cho cây trồng.

          Một năm thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý và tăng cường chế độ làm chủ tập thể đã đem lại kết quả: Việc ăn chia trong nội bộ HTX, làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước, định ra hướng nhiệm vụ, chỉ tiêu biện pháp sản xuất trong từng vụ, từng khâu, từng việc của HTX đều được xã viên bàn bạc và quyết định. Việc công khai tài chính, bảo vệ tài sản của HTX thực hiện tốt. Trong số 83 HTX đã có 16 HTX công khai tài chính từng vụ. Trong số 682 đội sản xuất thì có 480 đội công khai công điểm, phân tro hàng tháng. Tệ nạn tham ô, lấn chiếm đất, xâm chiếm tài sản của HTX, việc liên hoan chè chén được hạn chế. Chế độ 3 khoán, 3 quản trong HTX được thực hiện.

          Bên cạnh cây lúa, một số hoa màu như ngô, sắn, mía cũng được chú ý thâm canh. Nếu như năm 1969 trên diện tích 1.556 m2 đạt 460 tấn ngô thì năm 1970 sản lượng đã đat 955 tấn. Sản lượng sắn xấp xỉ 1.400 tấn. Mía đạt 3.776 tấn (năm 1969) tăng lên 4.300 tấn (năm 1970).

          Chăn nuôi trở thành ngành sản suất chính. Tổng số đàn lợn năm 1970 có 43.381 con, đạt 2,02 con/ha gieo trồng. Trọng lượng bình quân 1 con tăng là 41 kg. Đàn trâu, bò cày kéo có 16.000 con, tăng 766 con so với năm 1969. Toàn huyện có 12 trại chăn nuôi trâu bò tập thể với gần 1.000 con.

          Cùng với sản xuất, công tác tuyển quân chi viện, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ trị an được tăng cường. Đảng bộ đã lấy phong trào thi đua giành đơn vị Quyết thắng, phong trào tay cày, tay súng động viên dân quân, tự vệ... làm nòng cốt trong sản xuất. Năm 1970 đã hoàn thành việc giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự cho dân quân tự vệ, ý thức cảnh giác cách mạng và trách nhiệm đối với tiền tuyến được quán triệt tới mọi quần chúng. Năm 1970, đã hoàn thành xuất sắc 2 đợt tuyển quân và đợt đột xuất cuối năm. Nhiều thanh niên đã viết đơn tình nguyện bằng máu biểu thị quyết tâm của mình.

          Gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có người đi bộ đội được quan tâm chăm sóc. Nhiều  xãlàm tốt như Xuân Trường, Xuân Quang, Phú Yên.

          Chính quyền từ huyện đến xã đã làm tốt chức năng tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Các chủ trương, đường lối của Đảng được triển khai từ trong Đảng ra ngoài quần chúng. Bốn ngày kỷ niệm lớn trong năm 1970 được tổ chức trọng thể...

          Đảng bộ Thọ Xuân đã triển khai nhiều đợt sinh hoạt chính trị, đặc biệt là Nghị quyết 195 của Bộ Chính trị về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Sau khi thực hiện thí điểm ở Bắc Lương, Huyện uỷ đã tổ chức cho đảng viên học tập nghiên cứu Nghị quyết, sau đó tiến hành tự phê bình và phê bình, lấy 7 yêu cầu nâng cao chất lượng đảng viên làm nội dung rèn luyện. Qua cuộc vận động, nhận thức tư tưởng, ý thức trách nhiệm, quan điểm lập trường được nâng cao một bước, vai trò tiền phong gương mẫu của Đảng được phát huy. Đảng bộ, chi bộ, cấp uỷ được củng cố và cải tiến lề lối làm việc. Trong năm 1970 đã kết nạp 30 đảng viên lớp Hồ Chí Minh, xử lý kỷ luật 135 đảng viên, trong đó khiển trách và cảnh cáo 11 người, cách chức 37 người, lưu Đảng 59 người, khai trừ và xoá tên 26 người.

          Thực hiện ba cuộc vận động lớn do Trung ương Đảng phát động và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XII, huyện Thọ Xuân trở thành điển hình toàn diện. Đầu năm 1971, vinh dự được Trung ương chọn làm điểm xây dựng cấp huyện tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương và tỉnh, huyện tiến hành điều tra, xây dựng quy hoạch tổng thể, toàn huyện được phân làm 3 vùng kinh tế:

           - Vùng 1: Gồm 17 xã vùng hữu ngạn sông Chu là vùng trọng điểm lúa, chăn nuôi lợn và cá.

          - Vùng 2: Gồm 9 xã vùng tả ngạn, chủ yếu phát triển lúa màu và chăn nuôi.

          - Vùng 3: Các xã vùng đồi chủ yếu phát triển. chăn nuôi gia súc và trồng cây công nghiệp.

          Nhân dịp Xuân Tân Hợi (1971), Ban Thường vụ Huyện uỷ đã gửi thư kêu gọi nhân dân toàn huyện thi đua xây dựng bảo vệ hậu phương chi viện tiền tuyến. Vụ đông xuân, các đồng chí lãnh đạo huyện đến từng cơ sở chỉ đạo việc thí điểm gieo cấy theo lối mới. 6 xã trong huyện đã tổ chức hội thi cấy, kết quả đạt 2 - 3 sào một người/ngày. Tháng 1 năm 1971 toàn huyện đã hoàn thành nhập kho lương thực cho Nhà nước đạt 109% mức tỉnh giao, tăng hơn năm 1970 là 1.000 tấn. Ngoài ra còn thu mua ngoài nghĩa vụ 150 tấn. Nhiều gia đình bán thóc giá cao cho Nhà nước với số lượng lớn.

          Bước vào vụ sản xuất chiêm xuân tuy gặp khó khăn về thời tiết, đặc biệt là giá rét kéo dài đúng  vào kỳ gieo mạ, nhưng do sự phấn đấu của nhân dân trong huyện, toàn huyện đã gieo trồng được 10.973ha đạt 101,2% kế hoạch. Năng suất bình quân 2.980 kg/ha, sản lượng tăng so với kế hoạch là 2.775 tấn. Năng suất lúa cả năm 1971 toàn huyện đã đạt 6.036kg/ha, sản lượng đạt 47.500 tấn. Có 61 HTX, 33 xã đạt 5 tấn trở lên, HTX Hạnh Phúc đạt 9,6 tấn/ha, Xuân Thành đạt 9,4 tấn/ha. 17 HTX đạt 6tấn/ha. Toàn huyện làm nghĩa vụ 7.800 tấn thóc, trong đó bán giá cao 1.800 tấn. Một số gia đình bán cho Nhà nước từ 1,5 đến 2 tấn. Gia đình ông Đới (xã Xuân Hoà) trong 2 năm (1970 - 1971) đã bán cho Nhà nước 41 tạ thóc.

          Chăn nuôi năm 1971 có những bước phát triển mới. Đàn lợn đạt 49.784 con, bình quân đạt 2,2 con/ha gieo trồng. Phong trào nuôi lợn lai kinh tế phát triển nhanh. Nhiều HTX đã quy hoạch giống. thức ăn, xây dựng chuồng trại. Đàn trâu có 8.657 con, vượi kế hoạch 8,6% . Đàn bò 12.561 con, các xã Thọ Lâm, Xuân Lam, Thọ Xương đã nuôi bò sinh sản.

Thực hiện Nghị quyết 197 của Trung ương, quyền làm chủ của xã viên được mở rộng. Đầu năm 1971, 83 HTX tiến hành bầu lại Ban quâ trị. 77% số HTX thực hiện định mức xếp bậc. 86,6% HTX thực hiện 3 khoán.

          Giáo dục phát triển cả về số lượng, chất lượng. Mỗi năm số học sinh tăng lên 9.000 em. Năm học 1970 - 1971 tỷ lệ học sinh đậu tốt nghiệp cấp 1 đạt 86%, cấp 2 đạt 68%, cấp 3 đạt 80%. Mạng lưới y tế phát triển rộng khắp, toàn huyện có 346 thầy thuốc, trong đó có 2 bác sĩ và 81 y sĩ. Phong trào xây dựng các công trình vệ sinh như nhà tiêu, giếng nước, nhà tắm thường xuyên được đẩy mạnh... Công tác vệ sinh phòng bệnh có nhiều tiến bộ, kịp thời dập tắt dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.

Lĩnh vực quốc phòng- an ninh có nhiều tiến bộ. Lực lượng dân quân du kích, nòng cốt trong làm thuỷ lợi, diệt trừ sâu bệnh, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Lực lượng công an nâng cao cảnh giác làm tốt công tác trật tự trị an, phát động phong trào “6 khá" sâu rộng trong nhân dân, kịp thời trấn áp tội phạm, giữ vững trật tự trị an.

          Chấp hành chính sách hậu phương quân đội, các gia đình có người đi bộ đội được quan tâm chu đáo. Công tác tuyển quân năm 1971 đạt số lượng và chất lượng cao nhất so với những năm trước đó.

          Trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng được đẩy mạnh. Vai trò chi bộ được xác định rõ, sinh hoạt chi bộ, tổ Đảng nền nếp. Công tác kiểm tra của Đảng được tiến hành liên tục giáo dục động viên giữ gìn kỷ luật của Đảng kịp thời.

          Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục mở rộng phong trào "Ba sẵn sàng", làm nòng cốt trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và cách mạng kỹ thuật. Vụ mùa năm 1971 Đoàn đã có sáng kiến phát động thanh niên làm cánh đồng: Trần Ngọc Mật và Hoàng Ngọc Chương (là Anh hùng Quân đội quê Thọ Xuân), cánh đóng 10 tấn thắng Mỹ.

          Phong trào phụ nữ trong huyện ngày càng phát huy tác dụng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Có 27.232 chị em được bình bầu “Ba đảm đang". Năm 1971 đã phát động chị em tham gia xây dựng: “cánh đồng Bà Triệu", đạt năng suất cao. Chị em giữ vai trò chủ lực trên mặt trận nông nghiệp.

          Trong quá trình thực hiện 3 cuộc vận động lớn, sản xuất nông nghiệp giành thắng lợi cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Công tác tuyển quân chi viện hoàn thành vượt mức, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng và hệ thống chính trị được nâng lên một bước, Thọ Xuân trở thành huyện dẫn đầu toàn tỉnh.

III - VƯỢT QUA KHÓ KHĂN THỬ THÁCH, XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG VỮNG MẠNH, GÓP PHẦN CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG HOÀN TOÀN GIẶC MỸ XÂM LƯỢC (1972-1975)

          Đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước sang giai đoạn mới. Đế quốc Mỹ thua đau ở miền Nam đã tiếp tục ném bom trở lại miền Bắc. Sau hơn 3 năm tạm yên tiếng bom, nhân dân miền Bắc lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 không kém phần gay go, ác liệt. Đêm 12 rạng sáng 13-4-1972, máy bay B52 của địch đã ném bom rải thảm xuống một số nơi trên đất Thọ Xuân mà trọng điểm là khu vực Sao Vàng.

          Đứng trước tình hình mới, tháng 5-1972 tại hội trường Tân Thọ (Xuân Hoà) Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIII được tổ chức với sự có mặt của 160 đại biểu thay mặt cho trên 5.000 đảng viên của toàn Đảng bộ huyện. Đồng chí Võ Nguyên Lượng, Bí thư Tỉnh uỷ đã về dự và chỉ đạo Đại hội, Đại hội đã đánh giá phong trào trong huyện từ Đại hội XII đến Đại hội XIII, bầu ban Chấp hành khoá mới gồm 23 uỷ viên. Đồng chí Lê Công Bích được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu trong 2 năm 1972-1973. Nghị quyết nêu rõ 4 nhiệm vụ chính:

          1. Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu. Vì vậy phải ra sức làm tròn trách nhiệm của hậu phương lớn, chi viện kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ vững mạnh. Nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch.

          2. Phát triển kinh tế địa phương mạnh mẽ, vững chắc và toàn diện. Chú trọng thâm canh tăng năng suất cả lúa và màu, cây công nghiệp. phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính. Phát triển tiểu thủ công nghiệp, làm ra nhiều hàng hoá để tăng nguồn hàng xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

          3. Đẩy mạnh phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế góp phần nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân.

          4. Xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt: Tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo và phẩm chất cách mạng.

          Tháng 4-1972, toàn huyện chuyển hướng mọi hoạt động cho phù hợp với tình hình chiến tranh bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và của Nhà nước. Công tác phòng tránh đã được triển khai kịp thời, 82% gia đình trong huyện đã có hầm chữ A. Toàn huyện đào được 36.851 hầm cá nhân, 103.651m hào giao thông, đảm bảo đủ hầm hào dọc đường và nơi đông người. Lực lượng tự vệ được phiên chế thành trung đội trực chiến bảo vệ các công trình quan trọng, tổ chức 2 đại đội pháo 37 ly cùng bộ đội chủ lực bảo vệ đập Bái Thượng và thủy điện Bàn Thạch. Tại khu vực sân bay Sao Vàng, dân quân tự vệ của 7 xã quanh vùng có từ 700-800 người sẵn sàng phối hợp với bộ đội chiến đấu và san lấp hố bom sớm khôi phục hoạt động của sân bay.

          Đầu năm 1973, đế quốc Mỹ thất bại nặng nề ở cả 2 miền Nam Bắc buộc phải ký Hiệp định Pa ri. Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã nhanh chóng bắt tay vào khắc phục hậu quả của cuộc chiến thanh phá hoại , xây dựng quê hương và tiếp tục chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Từ các địa điểm sơ tán, các cơ quan ban, ngành, trường học, xí nghiệp lần lượt trở về địa điểm cũ, khôi phục hoạt động bình thường. Ngày 2-3-1973 Huyện uỷ Thọ Xuân đã họp bàn Đề án xây dựng cấp huyện. Huyện uỷ đã quyết định phát động phong trào thi đua lao động sản xuất lấy tên là “Phong trào lao động xã hội chủ nghĩa". Phong trào này đã được quân dân trong huyện hưởng ứng mạnh mẽ.

          Tháng 6-1973 Huyện mở “Hội trại Lam Sơn" và phát động chiến dịch "Sông Chu nổi sóng" tiến quân vào chiến dịch hoàn chỉnh thuỷ nông, thi đua với huyện Triệu Sơn. Đây là chiến dịch lớn được tổ chức và chỉ đạo chặt chẽ, có sự tham gia trực tiếp của đồng chí Bí thư Huyện uỷ và đồng chí Chủ tịch UBHC huyện. Các lực lượng dân quân, thanh niên được tổ chức thành 3 Sư đoàn và 5 Trung đoàn. Chỉ trong vòng nửa tháng, với tinh thần “Quế Sơn kiên cường xây dựng quê hương giải phóng, Thọ Xuân quật khởi tiến vào mặt trận thuỷ nông" toàn huyện đã huy động 1.008.530 ngày công, đào đắp 925.427m3 đất, căn bản hoàn chỉnh công tác thuỷ nông, Thọ Xuân đã được UBHC tỉnh tặng cờ “Đơn vị thi đua khá nhất" về phong trào hoàn chỉnh thuỷ nông.            

Trong những năm 1972 - 1973, Thọ Xuân đã chú ý chỉ đạo sản xuất theo vùng và tiếp tục duy trì phong trào thâm canh, đưa năng suất lúa năm 1972 đạt 57 tạ/ha: Xuân Thành, Hạnh Phúc đạt 8 tấn/ha; Phú Yên, Thọ Trường đạt 6,5 tấn/năm: Xuân Lam đạt 6 tấn/ha. Đàn trâu toàn huyện tăng, riêng đàn bò sụt so với năm 1965 trên 3.000 con. Đàn lợn từ 28.500 con năm 1965 lên trên dưới 50.000 con năm 1973.

Tháng 9 năm 1974, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV được tổ chức tại Hội trường huyện. Dự Đại hội có 200 đại biểu đại diện cho hơn 6.000 đảng viên trong toàn huyện. Đại hội đã thảo luận báo cáo tình hình, nhiệm vụ kinh tế, xã hội và báo cáo chuyên đề về công tác xây dựng Đảng.

Đại hội đã thống nhất đánh giá: "Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã ra sức khắc phục những hậu quả trong những năm chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và thiên tai do bão, lụt gây ra, đã giành thắng lợi trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, ổn định đời sống nhân dân, bảo đảm chi viện cho tiền tuyến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc".

Đại hội thông qua phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, và bầu Ban Chấp hành huyện Đảng bộ khoá XIV gồm 37 đồng chí "). Đồng chí Lê Văn Lành được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Sau các Nghị quyết 19, 20, và 22 tháng 9-1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 208. Chỉ thị đã nhấn mạnh đến vai trò cấp huyện và chủ trương kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý sản xuất từ huyện đến cơ sở. Theo phương hướng trên Trung ương Đảng đã chọn 5 huyện của cả miền Bắc chỉ đạo xây dựng thử nghiệm cấp huyện theo tinh thần Chỉ thị 208. Trong đó huyện Thọ Xuân là một trong 5 huyện làm điểm của Trung ương.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương và tỉnh về việc xây dựng cấp huyện. Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân tiếp tục phấn đấu đạt thành tựu mới toàn diện.

Năm 1970 sản lượng lương thực đạt 36.531 tấn quy thóc, đến năm 1974 đã dat 43.865 tấn quy thóc. Năm 1971, vụ đông chỉ trồng 22 ha khoai lang đến năm 1974 đã trồng 977 ha. Năm 1974 đàn trâu, bò toàn huyện đã tăng lên 9.450 con, đàn lợn tăng lên 45 285 con, làm nghĩa vụ cho Nhà nước 8.755 tấn thóc (tăng hơn năm 1970 là 2.000 tấn), bán cho Nhà nước 724 tấn thịt lợn hơi (tăng hơn năm 1970 là 200 tấn) hoàn thành 120% kế hoạch.

Năm 1975, tổng giá trị sản phẩm đạt 25.754.000 đồng, trong đó giá trị trồng trọt đạt 14.038.000 đồng, chăn nuôi đạt 5.897.000 đồng. Sản lượng lương thực đạt 43.865 tấn, đóng góp cho Nhà nước 4.634 tấn, vượt chỉ tiêu 7%, bán cho Nhà nước 1.456 tấn thit lợn hơi.

Trong 2 năm đã huy động 1.608.000 ngày công, đào đắp 2.615.000m3 đất. Cuối năm 1975 hoàn chỉnh thuỷ nông trước kế hoạch 1 năm, tạo điều kiện tăng vụ, mở rộng diện tích gieo trồng và thâm canh trên toàn bộ diện tích.

Hệ thống trạm trại vật tư nông nghiệp, trạm máy kéo, trạm thú y, trạm bảo vệ thực vật v.v... đã tăng cường cơ sở vật chất cho các HTX góp phần hình thành 3 vùng sản suất trên địa bàn huyện theo hướng tập trung chuyên canh và thâm canh. Từ 74 HTX tổ chức lại còn 38 HTX quy mô toàn xã. Các HTX đã quy hoạch lại đất đai, tổ chức quản lý, phân bổ lại lao động cho các đội chuyên, cho các ngành nghề. Toàn huyện đã mở đợt học tập Chỉ thị 209 về Điều lệ (chi tiết) của HTX nông nghiệp bậc cao, mở đợt vận động thu hồi nợ, tài sản và ruộng đất bị lấn chiếm.

Tháng 11-1974 Huyện mở Đại hội Nông dân tập thể lần thứ nhất. Đại hội đã biểu dương những thành tích mà giai cấp Nông dân đã đạt được và đề ra phương hướng nhiệm vụ của Hội Nông dân lập thể. Nhân Đại hội này, Huyện uỷ đã phát động chiến dịch: “5 mũi tiến công": - Tiến vào mặt thuỷ lợi, hoàn chỉnh thuỷ nông; - Tiến công vào vụ đông, bèo dâu và phân bón; Tiến công vào nhiệm vụ tuyển quân chi viện tiền tuyến; - Tiến công vào trận địa khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới: - Tiến công vào quản lý xã hội, quản lý thị trường. Sau Đại hội tinh thần làm chủ tập thể của nông dân trong huyện được nâng lên một bước . Mọi người phấn khởi, hăng hái tham gia lao động sản xuất, tích cực đóng góp xây dựng HTX với tinh thần “Hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ". Những HTX yếu kém như Xuân Lập, Xuân Tín, Xuân Hoà, Thọ Xương, Xuân Sơn, Xuân Hưng, Thọ Lộc có chuyển biến tiến bộ. Các xí nghiệp quốc doanh và Nông trường Sao Vàng đã cải tiến quản lý sản suất, kinh doanh, động viên phong trào quần chúng thi đua sản xuất.

Công tác giao thông vận tải chuyển biến tiến bộ. Toàn huyện đã làm mới và tu sửa 442 km đường, xây dựng cơ bản được 3 cầu cơ giới và cầu phao Lược, đại tu lại cầu phao Hạnh Phúc. Khối lượng đào đắp: 291.843m3 với 244.160 ngày công. Khối lượng vận tải so với kế hoạch tăng 12%.

Các ngành Ngân hàng, Tài chính, Thương nghiệp đã thực hiện cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, tổ chức lại mạng lưới phục vụ, mạng lưới hoạt động kinh doanh để phục vụ sản xuất và đời sống . Phong trào huy động vốn, vận động gửi tiền tiết kiệm được đẩy mạnh. Thu ngân sách năm 1975 vượt chỉ tiêu kế hoạch, tăng 18,5% so với năm 1974. Tệ tham ô móc ngoặc đang được đấu tranh khắc phục.

Lĩnh vực giáo dục phát triển với tốc độ nhanh. Năm học 1973-1974 toàn huyện có 39 trường cấp gồm 24.410 học sinh, 38 trường cấp 2 gồm 12.609 học sinh, 2 trường cấp 3 góm 1.917 học sinh. Đội ngũ giáo viên tăng nhanh và được bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, cải tiến phương pháp giảng dạy.

Hệ thống bệnh viện, bệnh xá, trạm xá được sửa chữa, nâng cấp mở rộng đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khỏe nhân dân. Số lượng bác sỹ và y sỹ tăng cường cả về số lượng và trình độ chuyên môn. Nhiều ca bệnh nguy cấp được kịp thời cứu chữa.        

Quán triệt các Nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Đảng bộ Thọ Xuân đã thường xuyên đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Năm 1974 toàn huyện có 13 Đảng bộ khá (chiếm 13,3%), năm 1975 tăng lên 18 Đảng bộ (chiếm 47,1%). Đảng bộ yếu kém năm 1974 chiếm 28,8%, đến năm 1975 giảm xuống còn 15,7%. Chi bộ yếu kém năm 1974 chiếm 11,3%, năm 1975 giảm xuống còn 8,4%. Đảng viên tích cực năm 1974 chiếm 51,2%, năm 1975 tăng lên là 59,7%. Tỷ lệ đảng viên trung bình cũng giảm từ 40,6% còn 33,7%, đảng viên yếu kém từ 8% giảm còn 6,4%. Đảng bộ, chi bộ cơ sở được củng cố lại một bước, chất lượng lãnh đạo được nâng lên.

Hệ thống chính quyền các cấp được củng cố kiện toàn, nhiệm vụ chức năng được xác định cụ thể. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện tốt, đời sống nhân dân được cải thiện. Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam trong giai đoạn mới, công tác tuyển quân chi viện từ 1970 đến 1975 vượt số lượng. Riêng năm 1975 huyện tiến hành 2 đợt tuyển quân đầu năm vượt nhiệm vụ cả năm 10%, Bộ Tư lệnh Quân khu III tặng cờ "Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyển quân năm 1975".

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi 21 năm chống Mỹ cứu nước, mở ra kỷ nguyên hòa bình độc lập thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Hòa trong khí thế tự hào phấn khởi của dân tộc, Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân khẩn trương tiến quân vào thời kỳ mới bằng khí thế và quyết tâm mới.